THỨ HAI TUẦN THÁNH NĂM C
TIN MỪNG: Ga 12, 1 – 11
1 Sáu ngày trước lễ Vượt Qua, Đức Giê-su đến làng Bê-ta-ni-a, nơi anh La-da-rô ở. Anh này đã được Người cho sống lại từ cõi chết. 2 Ở đó, người ta dọn bữa ăn tối thết đãi Đức Giê-su ; cô Mác-ta lo hầu bàn, còn anh La-da-rô là một trong những kẻ cùng dự tiệc với Người. 3 Cô Ma-ri-a lấy một cân dầu thơm cam tùng nguyên chất và quý giá xức chân Đức Giê-su, rồi lấy tóc mà lau. Cả nhà sực mùi thơm. 4 Một trong các môn đệ của Đức Giê-su là Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, kẻ sẽ nộp Người, liền nói : 5 “Sao lại không bán dầu thơm đó lấy ba trăm quan tiền mà cho người nghèo ?” 6 Y nói thế, không phải vì lo cho người nghèo, nhưng vì y là một tên ăn cắp : y giữ túi tiền và thường lấy cho mình những gì người ta bỏ vào quỹ chung. 7 Đức Giê-su nói : “Hãy để cô ấy yên. Cô đã giữ dầu thơm này là có ý dành cho ngày mai táng Thầy. 8 Thật vậy, người nghèo thì bên cạnh anh em lúc nào cũng có ; còn Thầy, anh em không có mãi đâu.” 9 Một đám đông người Do-thái biết Đức Giê-su đang ở đó. Họ tuôn đến, không phải chỉ vì Đức Giê-su, nhưng còn để nhìn thấy anh La-da-rô, kẻ đã được Người cho sống lại từ cõi chết. 10 Các thượng tế mới quyết định giết cả anh La-da-rô nữa, 11 vì tại anh mà nhiều người Do-thái đã bỏ họ và tin vào Đức Giê-su.
SUY NIỆM:
Cô Maria lấy một bình dầu thơm quý giá và đổ lên chân Chúa Giêsu – một cử chỉ thể hiện sự dâng hiến trọn vẹn và tình yêu vô điều kiện, dầu thơm quý giá, tượng trưng cho những của cải và giá trị vật chất, được Maria dùng để tôn vinh Chúa, đánh dấu sự nhận thức rằng Chúa Giêsu là Đấng cao cả và đáng nhận mọi sự kính trọng, dù vật chất có thể bị bỏ qua.
Câu hỏi đặt ra cho chúng ta là: Chúng ta có sẵn sàng dâng hiến những gì quý giá nhất của mình để tôn vinh Chúa không? Liệu chúng ta có để tình yêu và lòng tôn kính đối với Chúa vượt lên trên những lợi ích vật chất, những thành công và tham vọng cá nhân?
Sự phản đối của Giuđa và những người xung quanh về hành động của Maria cho thấy một góc nhìn thật hạn hẹp, chỉ quan tâm đến lợi ích vật chất. Nhưng Chúa Giêsu đã biện minh cho Maria và khẳng định rằng hành động của cô không chỉ là một sự hy sinh vô nghĩa, mà là một cử chỉ tiên báo về cái chết của Ngài. Đây là một lời nhắc nhở cho chúng ta rằng mọi sự hy sinh vì Chúa đều có giá trị vĩnh cửu, dù thế gian có thể không hiểu.
Nhìn vào hành động của Maria, chúng ta được mời gọi sống một cuộc đời dâng hiến, sẵn sàng đặt tình yêu Chúa lên trên hết và làm chứng cho tình yêu đó qua những hành động cụ thể trong cuộc sống hằng ngày.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin biến đổi trái tim đày hẹp hòi và ích kỷ nơi con. Xin biến đổi tim con nên quảng đại, sẵn sàng dành riêng cho Chúa những gì giá trị nhất và dành cho tha nhân những thứ họ cần, dù con có phải thiệt thòi, mất mát.
THỨ BA TUẦN THÁNH NĂM C
TIN MỪNG: Ga 13, 21 – 33. 36 – 38
21 Khi ấy, đang dùng bữa với các môn đệ, Đức Giê-su cảm thấy tâm thần xao xuyến. Người tuyên bố : “Thật, Thầy bảo thật anh em : có một người trong anh em sẽ nộp Thầy.” 22 Các môn đệ nhìn nhau, phân vân không biết Người nói về ai. 23 Trong số các môn đệ, có một người được Đức Giê-su thương mến. Ông đang dùng bữa, đầu tựa vào lòng Đức Giê-su. 24 Ông Si-môn Phê-rô làm hiệu cho ông ấy và bảo : “Hỏi xem Thầy muốn nói về ai ?” 25 Ông này liền nghiêng mình vào ngực Đức Giê-su và hỏi : “Thưa Thầy, ai vậy ?” 26 Đức Giê-su trả lời : “Thầy chấm bánh đưa cho ai, thì chính là kẻ ấy.” Rồi Người chấm một miếng bánh, trao cho Giu-đa, con ông Si-môn Ít-ca-ri-ốt. 27 Y vừa ăn xong miếng bánh, Xa-tan liền nhập vào y. Đức Giê-su bảo y : “Anh làm gì thì làm mau đi !” 28 Nhưng trong số các người đang dùng bữa, không ai hiểu tại sao Người nói với y như thế. 29 Vì Giu-đa giữ túi tiền, nên có vài người tưởng rằng Đức Giê-su nói với y : “Hãy mua những món cần dùng trong dịp lễ”, hoặc bảo y bố thí cho người nghèo. 30 Sau khi ăn miếng bánh, Giu-đa liền đi ra. Lúc đó, trời đã tối.
31 Khi Giu-đa đi rồi, Đức Giê-su nói : “Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người. 32 Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người, thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người.
33 “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi. Anh em sẽ tìm kiếm Thầy ; nhưng như Thầy đã nói với người Do-thái : ‘Nơi tôi đi, các người không thể đến được’, bây giờ, Thầy cũng nói với anh em như vậy.”
36 Ông Si-môn Phê-rô nói với Đức Giê-su : “Thưa Thầy, Thầy đi đâu vậy ?” Đức Giê-su trả lời : “Nơi Thầy đi, bây giờ anh không thể theo đến được ; nhưng sau này anh sẽ đi theo.” 37 Ông Phê-rô thưa : “Thưa Thầy, sao con lại không thể đi theo Thầy ngay bây giờ được ? Con sẽ thí mạng con vì Thầy !” 38 Đức Giê-su đáp : “Anh sẽ thí mạng vì Thầy ư ? Thật, Thầy bảo thật cho anh biết : gà chưa gáy, anh đã chối Thầy ba lần.”
SUY NIỆM:
Đoạn Tin Mừng mô tả một trong những giờ phút đầy xúc động trong bữa tiệc ly của Chúa Giêsu với các môn đệ, khi Ngài tuyên bố rằng một trong các môn đệ sẽ phản bội Ngài. Trong lúc này, tâm trạng của các môn đệ rất lo lắng, và ngay cả Phêrô cũng không ngờ mình sẽ phủ nhận Chúa. Đây là một đoạn Tin Mừng gợi lên nhiều suy tư về tình yêu, sự phản bội và lòng trung tín.
Chúa Giêsu biết trước rằng một trong các môn đệ sẽ phản bội Ngài, và Ngài cũng biết rằng Phêrô sẽ chối bỏ Ngài. Nhưng thay vì giận dữ hay lên án, Chúa Giêsu thể hiện sự kiên nhẫn và tình yêu vô bờ. Mặc dù biết trước sự phản bội và sự yếu đuối của các môn đệ, Ngài vẫn tiếp tục yêu thương và dành cho họ sự tha thứ. Điều này mời gọi chúng ta suy nghĩ về sự trung thành và tình yêu trong đời sống của mỗi người. Có bao nhiêu lần chúng ta đã phản bội Chúa bằng những hành động, lời nói, hay suy nghĩ của mình? Mặc dù vậy, Chúa Giêsu vẫn không ngừng yêu thương chúng ta, kêu gọi chúng ta quay lại và sống theo Ngài. Tình yêu của Chúa không bị giới hạn bởi những sai lầm hay yếu đuối của chúng ta.
Phêrô, trong đoạn Tin Mừng này, tuyên bố sẽ đi theo Chúa đến chết, nhưng Chúa Giêsu tiên báo rằng Phêrô sẽ chối Ngài ba lần trước khi gà gáy. Điều này cho thấy một sự thật đau lòng về sự yếu đuối của con người, nhưng cũng là một lời mời gọi chúng ta nhận ra rằng, dù chúng ta có vấp ngã hay thất bại, Chúa Giêsu vẫn luôn sẵn sàng tha thứ và giúp chúng ta đứng lên.
Lời mời gọi của Chúa Giêsu là lời mời gọi sự trung thành và can đảm trong tình yêu. Chúa không đòi hỏi chúng ta phải hoàn hảo, nhưng Ngài mong muốn chúng ta can đảm đối diện với sự yếu đuối của mình và bước đi trong tình yêu và sự tha thứ của Ngài.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin hiện diện cùng con trong mọi biến cố cuộc đời. Bởi sự hiện diện của Chúa cho con thêm vững tin. Tin vào sự sống đời này luôn có Chúa chở che quan phòng và tin vào đời sau có Chúa là phần phúc vĩnh cửu.
Xin cho con can trường trước mọi chông gai thử thách, vì tin rằng con không chiến đấu trong đơn độc.
Xin cho con mạnh mẽ vượt qua mọi cơn cám dỗ ngặt nghèo, vì tin rằng, có được Chúa mới là hạnh phúc đích thực mà suốt đời con kiếm tìm.
THỨ TƯ TUẦN THÁNH NĂM C
TIN MỪNG: Mt 26, 14 – 25
14 Khi ấy, một người trong Nhóm Mười Hai tên là Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, đi gặp các thượng tế 15 mà nói : “Tôi nộp ông Giê-su cho quý vị, thì quý vị muốn cho tôi bao nhiêu.” Họ quyết định cho hắn ba mươi đồng bạc. 16 Từ lúc đó, hắn cố tìm dịp thuận tiện để nộp Đức Giê-su.
17 Ngày thứ nhất trong tuần bánh không men, các môn đệ đến thưa với Đức Giê-su : “Thầy muốn chúng con dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu ?” 18 Người bảo : “Các anh đi vào thành, đến nhà một người kia và nói với ông ấy : “Thầy nhắn : thời của Thầy đã gần tới, Thầy sẽ đến nhà ông để ăn mừng lễ Vượt Qua với các môn đệ của Thầy.” 19 Các môn đệ làm y như Đức Giê-su đã truyền, và dọn tiệc Vượt Qua.
20 Chiều đến, Đức Giê-su vào bàn tiệc với mười hai môn đệ. 21 Đang bữa ăn, Người nói : “Thầy bảo thật anh em, một người trong anh em sẽ nộp Thầy.” 22 Các môn đệ buồn rầu quá sức, lần lượt hỏi Người : “Thưa Ngài, chẳng lẽ con sao ?” 23 Người đáp : “Kẻ giơ tay chấm chung một đĩa với Thầy, đó là kẻ nộp Thầy. 24 Đã hẳn Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người : thà nó đừng sinh ra thì hơn !” 25 Giu-đa, kẻ nộp Người cũng hỏi : “Ráp-bi, chẳng lẽ con sao ?” Người trả lời : “Chính anh nói đó !”
SUY NIỆM:
Bữa tiệc cuối cùng mà Chúa Giêsu đã hiện diện với các môn đệ, thật đáng buồn khi ngay lúc này, Ngài phải đón nhận sự phản bội của Giuđa Ít-ca-ri-ốt. Giuđa âm thầm đến gặp các thượng tế và quyết định trao Chúa Giêsu cho họ, đổi lấy ba mươi đồng bạc. Sau đó, Chúa Giêsu xác nhận rằng một trong các môn đệ sẽ phản bội Ngài trong chính bữa tiệc này.
Giuđa phản bội Chúa vì tham tiền, đã bán đứng Thầy mình, Đấng đã yêu thương và dẫn dắt ông suốt bao năm. Ba mươi đồng bạc là số tiền mà ông nhận được để phản bội Chúa. Số bạc tương đương với giá chuộc cho một kẻ nô lệ. Điều này khiến chúng ta phải suy nghĩ về giá trị của lòng trung thành và tình yêu đối với Chúa. Chúng ta có thể thấy trong cuộc sống, nhiều khi con người cũng dễ bị cám dỗ bởi vật chất, danh lợi, mà quên đi tình yêu và ơn gọi của mình. Liệu chúng ta có bán rẻ niềm tin và tình yêu của mình vì những lợi ích vật chất, hay có lúc chúng ta cũng phản bội Chúa một cách vô tình trong cuộc sống hàng ngày?
Tình yêu của Chúa Giêsu không thay đổi mặc dù biết trước việc Giuđa sẽ phản bội, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục yêu thương các môn đệ, bao gồm cả Giuđa. Ngài không loại trừ ai khỏi tình yêu của mình, dù người đó có lỗi lầm đến đâu. Điều này cho thấy tình yêu của Chúa là vô điều kiện và không hề thay đổi. Chúa Giêsu đã chuẩn bị tâm hồn các môn đệ, dù họ có yếu đuối, sai lầm hay thậm chí phản bội, nhưng Ngài vẫn kiên trì dẫn dắt họ đến với sự thật và sự cứu rỗi.
Chúng ta thấy trong đoạn Tin Mừng này, dù biết rằng một trong các môn đệ sẽ phản bội mình, Chúa Giêsu vẫn không ngừng trao ban chính mình cho họ. Đây là hình ảnh của Bí tích Thánh Thể, nơi Chúa Giêsu trao ban chính Mình và Máu Ngài để nuôi dưỡng chúng ta trong đức tin và tình yêu. Ngài mời gọi chúng ta tham dự vào sự hiến tế của Ngài để được kết hợp với Ngài trong tình yêu và sự sống vĩnh cửu.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con nhận ra tình yêu của Ngài dành cho mỗi người chúng con, ngay cả khi chúng con có thể phạm tội và phản bội Ngài. Xin ban cho chúng con ơn ăn năn và hoán cải, để chúng con luôn sống trung thành với tình yêu của Ngài, đặc biệt là trong những lúc khó khăn và thử thách. Amen.
Nhóm SNLC
THỨ NĂM TUẦN THÁNH NĂM C: THÁNH LỄ TIỆC LY
TIN MỪNG: Ga 13, 1 – 15
1 Trước lễ Vượt Qua, Đức Giê-su biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng.
2 Ma quỷ đã gieo vào lòng Giu-đa, con ông Si-môn Ít-ca-ri-ốt, ý định nộp Đức Giê-su. 3 Đức Giê-su biết rằng : Chúa Cha đã giao phó mọi sự trong tay Người, Người bởi Thiên Chúa mà đến, và sắp trở về cùng Thiên Chúa, 4 nên trong một bữa ăn, Người đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn mà thắt lưng. 5 Rồi Đức Giê-su đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau.
6 Vậy, Người đến chỗ ông Si-môn Phê-rô, ông liền thưa với Người : “Thưa Thầy ! Thầy mà lại rửa chân cho con sao ?” 7 Đức Giê-su trả lời : “Việc Thầy làm, bây giờ anh chưa hiểu, nhưng sau này anh sẽ hiểu.” 8 Ông Phê-rô lại thưa : “Thầy mà rửa chân cho con, không đời nào con chịu đâu !” Đức Giê-su đáp : “Nếu Thầy không rửa cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần với Thầy.” 9 Ông Si-môn Phê-rô liền thưa : “Vậy, thưa Thầy, xin cứ rửa, không những chân, mà cả tay và đầu con nữa.” 10 Đức Giê-su bảo ông : “Ai đã tắm rồi, thì không cần phải rửa nữa ; toàn thân người ấy đã sạch. Về phần anh em, anh em đã sạch, nhưng không phải tất cả đâu !” 11 Thật vậy, Người biết ai sẽ nộp Người, nên mới nói : “Không phải tất cả anh em đều sạch.”
12 Khi rửa chân cho các môn đệ xong, Đức Giê-su mặc áo vào, về chỗ và nói : “Anh em có hiểu việc Thầy mới làm cho anh em không ? 13 Anh em gọi Thầy là ‘Thầy’, là ‘Chúa’, điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. 14 Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. 15 Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em.”
SUY NIỆM:
Tam Nhật Thánh là chóp đỉnh của cả năm Phụng vụ: bắt đầu từ chiều Thứ Năm với Thánh lễ Tiệc Ly, và kết thúc vào Kinh Chiều Chúa Nhật Phục Sinh. Trong Thánh Lễ Tiệc Ly hôm nay tỏ lộ 3 ý nghĩa chính, đó là Tưởng niệm việc Chúa Giêsu lập Bí tích Thánh Thể; tưởng niệm việc Chúa Giêsu lập Bí tích Truyền Chức Thánh; và tưởng niệm việc Chúa Giêsu ban Giới luật yêu thương, được minh họa bằng việc Chúa Giêsu cúi mình rửa chân cho các Tông đồ. Chúa Giêsu đã cúi mình rửa chân cho các tông đồ và mời các ngài cũng phải rửa chân cho nhau nữa. Vì thế, chúng ta hãy chiêm ngắm việc Chúa cúi mình rửa chân cho các tông đồ hôm nay, để đến lượt chúng ta, chúng ta hãy cúi mình để rửa chân cho nhau.
Chúa Giêsu đã hỏi các Tông đồ, mà xem như đang hỏi từng người chúng ta về mục đích của việc Ngài làm: “Anh em có hiểu việc Thầy mới làm cho anh em không?” (Ga 13,12). Hiểu quá đi chứ! Tức là từ nay Phêrô và các Tông đồ phải hầu hạ anh em mình như những tôi tớ hầu hạ chủ. Và nếu chúng ta không để cho Chúa rửa chân, và không cúi mình xuống rửa chân cho anh chị em của mình như một người đấy tớ, thì chúng ta tự coi mình ra rìa, không thuộc về Chúa nữa. Hiểu là thế! Nhưng cúi mình xuống chưa bao giờ là chuyện dễ dàng cả, vì ngày hôm nay người ta chỉ thích đứng thẳng ưỡn ngực chỉ tay năm ngón, chứ có ai thích cúi xuống bao giờ đâu.
Khi chiêm ngắm cử chỉ cúi xuống của Giêsu, chúng ta thấy trước khi cúi xuống, Chúa Giêsu phải “cởi áo ngoài ra” (Ga 13,4). Rõ ràng hành động này không phải là để cho tiện khỏi vướng víu trong việc phục vụ, nhưng nó còn diễn tả một ý nghĩa sâu xa, là Ngài cởi bỏ đi cương vị của mình. Bởi lẽ, nếu Chúa Giêsu không từ bỏ cương vị của mình, thì Ngài không quỳ xuống để rửa chân cho các tông đồ. Vì theo tục lệ của người Do thái, chỉ người nô lệ mới làm công việc này. Và đây là một hành vi bị sỉ nhục ghê gớm. Khi cúi xuống như thế, là Ngài đã cởi áo ra, rũ bỏ tước vị, rũ bỏ ngay phẩm giá của mình. Nếu Ngài cứ giữ cương vị của mình là Thiên Chúa, là Đấng Chủ Tể muôn loài, thì không thể nào làm hành vi tự hạ như thế. Vì yêu thương con người, Chúa Giêsu đã tự hạ rửa chân cho học trò mình. Qua đó, chúng ta nhận ra rằng, để có thể cúi xuống phục vụ như Người Đầy Tớ Giêsu, điều trước tiên mỗi người chúng ta cần phải dám cởi bỏ cái tước vị của mình, cái tước vị là chồng, là gia trưởng, là cha, là sếp…, tước vị mà người đời phong tặng cho mình.
Chúng ta còn thấy sau khi rửa chân cho các tông đồ, Chúa Giêsu còn cẩn thận lau thật sạch sẽ chân cho họ. Hành động này cho chúng ta hiểu rằng, khi chúng ta đã rửa chân cho anh chị em mình, tức là chấp nhận hoặc tha thứ mọi sai lầm lỗi phạm của họ, chúng ta còn cần phải lau khô tất cả, phải quên đi và không bao giờ được nhắc nhớ tới nữa. Quên sự xúc phạm người khác đã làm cho mình; quên đi cái đau đớn mà việc làm ấy gây ra cho mình; quên đi rằng mình đã từng bị anh chị em làm cho mình đau khổ. Cốt lõi của việc rửa chân cũng hệ tại ở việc lau sạch bàn chân mà mình đã rửa.
Có một hình ảnh so sánh vui thế này: Ngoại trừ những người phụ nữ đang mang thai, thì đối với nhiều người, đặc biệt là các ông, các anh khi mỗi lần cúi xuống là lại phải thở gấp vì cấn cái bụng, qua đó giúp chúng ta hiểu rằng để có thể nhẹ nhàng cúi xuống phục vụ anh chị em của mình, chúng ta cần phải tập luyện hằng ngày, sao cho cái bụng căng cứng chứa đầy những cái tôi, chứa đầy hận thù, ganh ghét, ích kỷ, giận hờn, thắng thua trong chúng ta phải ngày càng bé đi, thì mới mong cúi xuống rửa chân cho anh chị em mình được.
Ước mong sao ngày nào cũng là ngày Thứ Năm Tuần Thánh, để chúng ta thuộc về Thầy Giêsu, qua việc chúng ta để cho Ngài gột rửa chúng ta sạch hết những vết nhơ trần thế, và qua việc chúng ta luôn biết cúi mình xuống rửa chân cho nhau bằng những việc làm cụ thể trong đời sống hằng ngày.
THỨ SÁU TUẦN THÁNH NĂM C
TIN MỪNG: Ga 18, 1 – 19, 42
Cuộc Thương Khó của Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.
181 nk Khi ấy, Đức Giê-su đi ra cùng với các môn đệ, sang bên kia suối Kít-rôn. Ở đó, có một thửa vườn, Người cùng với các môn đệ đi vào. 2 Giu-đa, kẻ nộp Người, cũng biết nơi này, vì Người thường tụ họp ở đó với các môn đệ. 3 Vậy, Giu-đa tới đó, dẫn một toán quân cùng đám thuộc hạ của các thượng tế và nhóm Pha-ri-sêu ; họ mang theo đèn đuốc và khí giới. 4 Đức Giê-su biết mọi việc sắp xảy đến cho mình, nên tiến ra và hỏi : ✠ “Các anh tìm ai ?” 5 nk Họ đáp : dc “Tìm Giê-su Na-da-rét.” nk Người nói : ✠ “Chính tôi đây.” nk Giu-đa, kẻ nộp Người, cũng đứng chung với họ. 6 Khi Người vừa nói : “Chính tôi đây”, thì họ lùi lại và ngã xuống đất. 7 Người lại hỏi một lần nữa : ✠ “Các anh tìm ai ?” nk Họ đáp : dc “Tìm Giê-su Na-da-rét.” 8 nk Đức Giê-su nói : ✠ “Tôi đã bảo các anh là chính tôi đây. Vậy, nếu các anh tìm bắt tôi, thì hãy để cho những người này đi.” 9 nk Thế là ứng nghiệm lời Đức Giê-su đã nói : “Những người Cha đã ban cho con, con không để mất một ai.”
10 nk Ông Si-môn Phê-rô có sẵn một thanh gươm, bèn tuốt ra, nhằm người đầy tớ vị thượng tế, mà chém đứt tai phải của y. Người đầy tớ ấy tên là Man-khô. 11 Đức Giê-su nói với ông Phê-rô : ✠ “Hãy xỏ gươm vào bao. Chén mà Chúa Cha đã trao cho Thầy, lẽ nào Thầy chẳng uống ?”
12 nk Bấy giờ toán quân và viên chỉ huy cùng đám thuộc hạ của người Do-thái bắt Đức Giê-su và trói Người lại. 13 Trước tiên, họ điệu Đức Giê-su đến ông Kha-nan là nhạc phụ ông Cai-pha. Ông Cai-pha làm thượng tế năm đó. 14 Chính ông này đã đề nghị với người Do-thái là nên để một người chết thay cho dân thì hơn.
15 nk Ông Si-môn Phê-rô và một môn đệ khác đi theo Đức Giê-su. Người môn đệ này quen biết vị thượng tế, nên cùng với Đức Giê-su vào sân trong của tư dinh vị thượng tế. 16 Còn ông Phê-rô đứng ở phía ngoài, gần cổng. Người môn đệ kia quen biết vị thượng tế ra nói với chị giữ cổng, rồi dẫn ông Phê-rô vào. 17 Người tớ gái giữ cổng nói với ông Phê-rô : m “Cả bác nữa, bác không thuộc nhóm môn đệ của người ấy sao ?” nk Ông liền đáp : m “Đâu phải.” 18 nk Vì trời lạnh, các đầy tớ và thuộc hạ đốt than và đứng sưởi ở đó ; ông Phê-rô cũng đứng sưởi với họ. 19 Vị thượng tế tra hỏi Đức Giê-su về các môn đệ và giáo huấn của Người. 20 Đức Giê-su trả lời : ✠ “Tôi đã nói công khai trước mặt thiên hạ ; tôi hằng giảng dạy trong hội đường và tại Đền Thờ, nơi mọi người Do-thái tụ họp. Tôi không hề nói điều gì lén lút. 21 Sao ông lại hỏi tôi ? Điều tôi đã nói, xin cứ hỏi những người đã nghe tôi. Chính họ biết tôi đã nói gì.” 22 nk Đức Giê-su vừa dứt lời, thì một tên trong nhóm thuộc hạ đứng đó vả vào mặt Người mà nói : m “Anh trả lời vị thượng tế như thế ư ?” 23 nk Đức Giê-su đáp : ✠ “Nếu tôi nói sai, anh chứng minh xem sai ở chỗ nào ; còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi ?” 24 nk Ông Kha-nan cho giải Người đến thượng tế Cai-pha, Người vẫn bị trói.
25 nk Còn ông Si-môn Phê-rô thì vẫn đứng sưởi ở đó. Người ta nói với ông : m “Cả bác nữa, bác không thuộc nhóm môn đệ của ông ấy sao ?” nk Ông liền chối : m “Đâu phải.” 26 nk Một trong các đầy tớ của vị thượng tế, có họ với người bị ông Phê-rô chém đứt tai, lên tiếng hỏi : m “Tôi đã chẳng thấy bác ở trong vườn với ông ấy sao ?” 27 nk Một lần nữa ông Phê-rô lại chối, và ngay lúc ấy gà liền gáy.
28 nk Vậy, người Do-thái điệu Đức Giê-su từ nhà ông Cai-pha đến dinh tổng trấn. Lúc đó trời vừa sáng. Nhưng họ không vào dinh kẻo bị nhiễm uế mà không ăn lễ Vượt Qua được. 29 Vì thế, tổng trấn Phi-la-tô ra ngoài gặp họ và hỏi : m “Các người tố cáo ông này về tội gì ?” 30 nk Họ đáp : dc “Nếu ông này không làm điều ác, thì chúng tôi đã chẳng đem nộp cho quan.” 31 nk Ông Phi-la-tô bảo họ : m “Các người cứ đem ông ta đi mà xét xử theo luật của các người.” nk Người Do-thái đáp : dc “Chúng tôi không có quyền xử tử ai cả.” 32 nk Thế là ứng nghiệm lời Đức Giê-su đã nói, khi ám chỉ Người sẽ phải chết cách nào.
33 nk Ông Phi-la-tô trở vào dinh, cho gọi Đức Giê-su và nói với Người : m “Ông có phải là vua dân Do-thái không ?” 34 nk Đức Giê-su đáp : ✠ “Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về tôi ?” 35 nk Ông Phi-la-tô trả lời : m “Tôi là người Do-thái sao ? Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. Ông đã làm gì ?” 36 nk Đức Giê-su trả lời : ✠ “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do-thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này.” 37 nk Ông Phi-la-tô liền hỏi : m “Vậy ông là vua sao ?” nk Đức Giê-su đáp : ✠ “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này : làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi.” 38 nk Ông Phi-la-tô nói với Người : m “Sự thật là gì ?”
nk Nói thế rồi, ông lại ra gặp người Do-thái và bảo họ : m “Phần ta, ta không tìm thấy lý do nào để kết tội ông ấy. 39 Theo tục lệ của các người, vào dịp lễ Vượt Qua, ta thường tha một người nào đó cho các người. Vậy các người có muốn ta tha vua dân Do-thái cho các người không ?” 40 nk Họ lại la lên rằng : dc “Đừng tha nó, nhưng xin tha Ba-ra-ba !” nk Mà Ba-ra-ba là một tên cướp.
191 nk Bấy giờ ông Phi-la-tô truyền đem Đức Giê-su đi và đánh đòn Người. 2 Bọn lính kết một vòng gai làm vương miện, đặt lên đầu Người, và khoác cho Người một áo choàng đỏ. 3 Họ đến gần và nói : dc “Kính chào Vua dân Do-thái !”, nk rồi vả vào mặt Người.
4 nk Ông Phi-la-tô lại ra ngoài và nói với người Do-thái : m “Đây ta dẫn ông ấy ra ngoài cho các người, để các người biết là ta không tìm thấy lý do nào để kết tội ông ấy.” 5 nk Vậy, Đức Giê-su bước ra ngoài, đầu đội vương miện bằng gai, mình khoác áo choàng đỏ. Ông Phi-la-tô nói với họ : m “Đây là người !” 6 nk Khi vừa thấy Đức Giê-su, các thượng tế cùng các thuộc hạ liền kêu lên rằng : dc “Đóng đinh, đóng đinh nó vào thập giá !” nk Ông Phi-la-tô bảo họ : m “Các người cứ đem ông này đi mà đóng đinh vào thập giá, vì phần ta, ta không tìm thấy lý do để kết tội ông ấy.” 7 nk Người Do-thái đáp lại : dc “Chúng tôi có Lề Luật ; và chiếu theo Lề Luật, thì nó phải chết, vì nó đã xưng mình là Con Thiên Chúa.”
8 nk Nghe lời đó, ông Phi-la-tô càng sợ hơn nữa. 9 Ông lại trở vào dinh và nói với Đức Giê-su : m “Ông từ đâu mà đến ?” nk Nhưng Đức Giê-su không trả lời. 10 Ông Phi-la-tô mới nói với Người : m “Ông không trả lời tôi ư ? Ông không biết rằng tôi có quyền tha và cũng có quyền đóng đinh ông vào thập giá sao ?” 11 nk Đức Giê-su đáp lại : ✠ “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài. Vì thế, kẻ nộp tôi cho ngài thì mắc tội nặng hơn.”
12 nk Từ đó, ông Phi-la-tô tìm cách tha Người. Nhưng dân Do-thái kêu lên rằng : dc “Nếu ngài tha nó, ngài không phải là bạn của Xê-da. Ai xưng mình là vua, thì chống lại Xê-da.” 13 nk Khi nghe thấy thế, ông Phi-la-tô truyền dẫn Đức Giê-su ra ngoài. Ông đặt Người ngồi trên toà, ở nơi gọi là Nền Đá, tiếng Híp-ri là Gáp-ba-tha. 14 Hôm ấy là ngày áp lễ Vượt Qua, vào khoảng mười hai giờ trưa. Ông Phi-la-tô nói với người Do-thái : m “Đây là vua các người !” 15 nk Họ liền hô lớn : dc “Đem đi ! Đem nó đi ! Đóng đinh nó vào thập giá !” nk Ông Phi-la-tô nói với họ : m “Chẳng lẽ ta lại đóng đinh vua các người sao ?” nk Các thượng tế đáp : dc “Chúng tôi không có vua nào cả, ngoài Xê-da.” 16 nk Bấy giờ ông Phi-la-tô trao Đức Giê-su cho họ đóng đinh vào thập giá.
nk Vậy họ điệu Đức Giê-su đi. 17 Chính Người vác lấy thập giá đi ra, đến nơi gọi là Cái Sọ, tiếng Híp-ri là Gôn-gô-tha ; 18 tại đó, họ đóng đinh Người vào thập giá, đồng thời cũng đóng đinh hai người khác nữa, mỗi người một bên, còn Đức Giê-su thì ở giữa. 19 Ông Phi-la-tô cho viết một tấm bảng và treo trên thập giá ; bảng đó có ghi : “Giê-su Na-da-rét, Vua dân Do-thái.” 20 Trong dân Do-thái, có nhiều người đọc được bảng đó, vì nơi Đức Giê-su bị đóng đinh là một địa điểm ở gần thành. Tấm bảng này viết bằng các tiếng : Híp-ri, La-tinh và Hy-lạp. 21 Các thượng tế của người Do-thái nói với ông Phi-la-tô : m “Xin ngài đừng viết : ‘Vua dân Do-thái’, nhưng viết : ‘Tên này đã nói : Ta là Vua dân Do-thái’.” 22 nk Ông Phi-la-tô trả lời : m “Ta viết sao, cứ để vậy !”
23 nk Đóng đinh Đức Giê-su vào thập giá xong, lính tráng lấy áo xống của Người chia làm bốn phần, mỗi người một phần ; họ lấy cả chiếc áo dài nữa. Nhưng chiếc áo dài này không có đường khâu, dệt liền từ trên xuống dưới. 24 Vậy họ nói với nhau : m “Đừng xé áo ra, cứ bắt thăm xem ai được.” nk Thế là ứng nghiệm lời Kinh Thánh : Áo xống tôi, chúng đem chia chác, cả áo dài, cũng bắt thăm luôn. Đó là những điều lính tráng đã làm.
25 nk Đứng gần thập giá Đức Giê-su, có thân mẫu Người, chị của thân mẫu, bà Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát, cùng với bà Ma-ri-a Mác-đa-la. 26 Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giê-su nói với thân mẫu rằng : ✠ “Thưa Bà, đây là con của Bà.” 27 nk Rồi Người nói với môn đệ : ✠ “Đây là mẹ của anh.” nk Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình.
28 nk Sau đó, Đức Giê-su biết là mọi sự đã hoàn tất. Và để ứng nghiệm lời Kinh Thánh, Người nói : ✠ “Tôi khát !” 29 nk Ở đó, có một bình đầy giấm. Người ta lấy miếng bọt biển có thấm đầy giấm, buộc vào một nhành hương thảo, rồi đưa lên miệng Người. 30 Nhắp xong, Đức Giê-su nói : ✠ “Thế là đã hoàn tất !” nk Rồi Người gục đầu xuống và trao Thần Khí.
(quỳ gối thinh lặng trong giây lát)
31 nk Hôm đó là ngày áp lễ, người Do-thái không muốn để xác chết trên thập giá trong ngày sa-bát, mà ngày sa-bát đó lại là ngày lễ lớn. Vì thế họ xin ông Phi-la-tô cho đánh giập ống chân các người bị đóng đinh và lấy xác xuống. 32 Quân lính đến, đánh giập ống chân người thứ nhất và người thứ hai cùng bị đóng đinh với Đức Giê-su. 33 Khi đến gần Đức Giê-su và thấy Người đã chết, họ không đánh giập ống chân Người. 34 Nhưng một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì, máu cùng nước chảy ra. 35 Người xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực ; và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin. 36 Các việc này đã xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh Thánh : Không một khúc xương nào của Người sẽ bị đánh giập. 37 Lại có lời Kinh Thánh khác : Họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu.
38 nk Sau đó, ông Giô-xếp, người A-ri-ma-thê, xin ông Phi-la-tô cho phép hạ thi hài Đức Giê-su xuống. Ông Giô-xếp này là một môn đệ theo Đức Giê-su, nhưng cách kín đáo, vì sợ người Do-thái. Ông Phi-la-tô chấp thuận. Vậy, ông Giô-xếp đến hạ thi hài Người xuống. 39 Ông Ni-cô-đê-mô cũng đến. Ông này trước kia đã tới gặp Đức Giê-su ban đêm. Ông mang theo chừng một trăm cân mộc dược trộn với trầm hương. 40 Các ông lãnh thi hài Đức Giê-su, lấy băng vải tẩm thuốc thơm mà quấn, theo tục lệ chôn cất của người Do-thái. 41 Nơi Đức Giê-su bị đóng đinh có một thửa vườn, và trong vườn, có một ngôi mộ còn mới, chưa chôn cất ai. 42 Vì hôm ấy là ngày áp lễ của người Do-thái, mà ngôi mộ lại gần bên, nên các ông mai táng Đức Giê-su ở đó.
SUY NIỆM:
Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh hôm nay, một hình dáng xù xì, khẳng khiu, vươn cao lên, xòe rộng ra, ôm lấy chúng ta, bao phủ lấy chúng ta, đó là bóng Cây Thánh Giá Chúa Kitô. Vậy thì, thập giá và Thánh Giá có khác nhau không? Khác nhau chứ, khác một trời một vực: thập giá là do lòng thù hận độc ác của loài người sản xuất ra, còn Thánh Giá là do tình yêu thương vô bờ, vô bến của Thiên Chúa sáng tạo nên. Ngày thứ Sáu Tuần Thánh hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy kính thờ Thánh Giá, và chiêm ngắm Tình yêu nơi Chúa Giêsu trên Thánh Giá.
Chúng ta được mời gọi Kính Thờ Thánh Giá. Tại sao phải Kính thờ Thánh Giá? Thưa, bởi vì Thánh Giá dạy người Công giáo những bài học, mà Chúa Giêsu đã truyền dạy phải sống và thi hành: Hình thẳng hướng lên, người Công giáo hãy sống mến Chúa! Hình ngang, người Công giáo hãy sống yêu người! Tay Chúa dang ra, người Công giáo hãy rộng mở đôi tay đối với mọi người, không xua đuổi ai. Người Công giáo hãy tha thứ mọi xúc phạm của người khác đối với mình, không loại trừ xúc phạm nào. Tay Chúa bị đóng đinh, người Công giáo hãy dùng đôi tay để cầu nguyện, để lao động, để giúp đỡ và bố thí. Người Công giáo hãy đền tội cho đôi tay của mình, là đôi tay thường biếng nhác, trộm cắp và đánh đập kẻ khác. Chân Chúa bị đóng đinh, người Công giáo hãy dùng đôi chân để đi đến nhà thờ, đi làm việc đạo đức và bác ái, đi làm việc hữu ích. Người Công giáo hãy biết đền tội cho đôi chân của mình, là đôi chân thường đi đến những nơi vô ích, đi đến những nơi tội lỗi, đi đến với kẻ phạm tội. Trái Tim Chúa bị đâm thâu, người Công giáo hãy thắp lửa mến Chúa yêu người trong trái tim của mình. Người Công giáo hãy biết ăn năn thống hối về những tội mình đã vô tình, vô ơn với Chúa.
Bên cạnh đó, chúng ta được mời gọi chiêm ngắm Tình Yêu nơi Chúa Giêsu trên Thánh Giá. Thật vậy, đối với nhiều người ngoài Kitô giáo, họ đều cảm thấy sợ hãi khi bước vào nhà thờ, sợ hãi mỗi khi nhìn lên Thánh Giá, thấy một người bị đóng đinh, máu chảy đầm đìa. Tại sao lại thờ một người khủng khiếp như vậy? Người Công giáo chúng ta có sợ Thánh Giá không? Chắc chắn là không. Khi kính thờ Thánh Giá, chúng ta không suy tôn hai thanh gỗ xếp thành hình chữ thập. Nhưng chúng ta kính thờ chính Đấng chịu đóng đinh vào thập giá. Ngài là Đấng vô tội, là Con Thiên Chúa làm người, là Con Chiên hiền lành bị đem đi làm thịt, là Đấng đã yêu mến và hiến mạng sống vì chúng ta, một Thánh Tâm đã vắt cạn từng giọt máu vì chúng ta.
Đối với mỗi người Kitô hữu chúng ta, thập giá đã trở thành Thánh Giá đem lại sự sống đời đời. Thánh Giá đã trở nên biểu tượng của Kitô giáo. Thánh Giá có mặt trên Cây Nến Phục Sinh. Thánh Giá hiện diện trên thân xác chúng ta, mỗi khi chúng ta Làm Dấu Thánh Giá. Thánh Giá còn ở với mỗi người Kitô hữu chúng ta suốt đời, vì chính Chúa Giêsu đã nói: “Ai muốn theo Tôi, phải từ bỏ chính mình, vác Thánh Giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9,23). Vì thế, chúng ta đừng sợ hãi hay tránh né Thánh Giá, và cũng đừng kéo lê Thánh Giá đời mình. Kinh nghiệm thiêng liêng của tác giả Sách Gương Chúa Giêsu an ủi chúng ta: “Nếu bạn vui vẻ vác Thánh Giá, thì Thánh Giá sẽ vác bạn”. Vậy thì hôm nay, chúng ta hãy hân hoan cúi xuống để hôn kính Thánh Giá đời mình, hôn kính Thánh Giá của tha nhân đang sống bên cạnh, hôn kính Thánh Giá của quê hương đất nước mình, hôn kính Thánh Giá của Giáo Hội, cho dù chúng ta chẳng bao giờ hiểu hết được mầu nhiệm Thánh Giá.
Sau cùng, ngày thứ Sáu Tuần Thánh, mời gọi mỗi người Công giáo chúng ta hãy quyết tâm làm những điều này: Hãy đặt Thánh Giá nơi cao trọng nhất trong nhà của mình! Hãy mang Thánh Giá trên ngực, trên trái tim, là nơi đầy ý nghĩa nhất trong con người của mình. Hãy làm Dấu Thánh Giá, một cách trang nghiêm, sốt sắng, và làm cho ra Một Hình Thánh Giá cân đối. Hãy năng nhìn lên Thánh Giá để tỏ lòng yêu mến Chúa Giêsu đang đau khổ vì tội lỗi loài người. Hãy như Thánh Casimirô, mỗi lần nhìn lên Thánh Giá, là mỗi lần cảm động và rơi nước mắt. Hãy luôn mang Thánh Giá trong tâm hồn của mình, để tỏ lòng yêu mến Chúa Giêsu; luôn mang Thánh Giá trong đầu óc của mình, để suy niệm về tình Chúa Giêsu yêu thương loài người… Và nhất là, trong đời sống hằng ngày, người Công giáo chúng ta hãy luôn sống, và thực hành những bài học của Tình yêu nơi Chúa Giêsu trên Thánh Giá.
Ước mong sao, ngày Thứ Sáu Tuần Thánh hôm nay, không chỉ dừng lại ở việc kính thờ và chiêm ngắm, không chỉ dừng lại nơi đầu môi chót lưỡi của chúng ta mà thôi, nhưng là, từng ngày trong đời sống, mỗi người chúng ta từ thẳm sâu đáy lòng mình, luôn biết tôn kính, luôn biết yêu mến Thánh Giá, và nhận ra được, cảm nghiệm được tình yêu nơi Thánh Tâm Chúa Giêsu bị đâm thâu, một Thánh Tâm chịu đâm thâu và từng giọt máu được vắt cạn, vắt cạn vì tình yêu dành cho riêng từng người trong chúng ta, dành cho cả nhân loại này. Và nhất là từng ngày trong đời sống Kitô hữu của chúng ta, hãy biết học yêu Thánh Giá: Thánh Giá là chữ T. Người nằm giang tay chữ Y. Là tình yêu, yêu đến tận cùng. Yêu nhân gian chiều ngang. Yêu đời mình chiều sâu. Yêu Chúa là chiều cao. Để tình yêu luôn mãi nhiệm mầu. Amen.
THỨ BẢY TUẦN THÁNH NĂM C: LỄ VỌNG PHỤC SINH
TIN MỪNG: Lc 24, 1 – 12
1 Ngày thứ nhất trong tuần, vừa tảng sáng, các bà đi ra mộ, mang theo dầu thơm đã chuẩn bị sẵn. 2 Họ thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mộ. 3 Nhưng khi bước vào, họ không thấy thi hài Chúa Giê-su đâu cả. 4 Họ còn đang phân vân, thì bỗng có hai người đàn ông y phục sáng chói, đứng bên họ. 5 Đang lúc các bà sợ hãi, cúi gầm xuống đất, thì hai người kia nói : “Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết ? 6 Người không còn đây nữa, nhưng đã trỗi dậy rồi. Hãy nhớ lại điều Người đã nói với các bà hồi còn ở Ga-li-lê, 7 là Con Người phải bị nộp vào tay phường tội lỗi, và bị đóng đinh vào thập giá, rồi ngày thứ ba sống lại.”
8 Bấy giờ các bà nhớ lại những điều Đức Giê-su đã nói. 9 Khi từ mộ trở về, các bà kể cho Nhóm Mười Một và mọi người khác biết tất cả những sự việc ấy. 10 Mấy bà nói đây là bà Ma-ri-a Mác-đa-la, bà Gio-an-na, và bà Ma-ri-a, mẹ ông Gia-cô-bê. Các bà khác cùng đi với mấy bà này cũng nói với các Tông Đồ như vậy. 11 Nhưng các ông cho là chuyện vớ vẩn, nên chẳng tin.
12 Dầu vậy, ông Phê-rô cũng đứng lên chạy ra mộ. Nhưng khi cúi nhìn, ông thấy chỉ còn có những khăn liệm thôi. Ông trở về nhà, rất đỗi ngạc nhiên về sự việc đã xảy ra.
SUY NIỆM:
Đêm nay, toàn thể Giáo hội và mọi Kitô hữu trên khắp hoàn cầu đều hân hoan vui mừng: Vì Chúa Kitô đã sống lại và bước ra khỏi mồ. Thánh lễ đêm nay có nhiều biểu tượng và dấu chỉ rất ý nghĩa: Cây nến Phục sinh tượng trưng Chúa Kitô là ánh sáng muôn dân; bài công bố Tin Mừng Phục sinh – nhắc lại cuộc thương khó và sống lại của Chúa Kitô, ca tụng Chúa Kitô là Đấng cứu chuộc nhân loại; Nước thánh Phục sinh chính là dòng nước Thanh tẩy mà chúng ta đã lãnh nhận qua phép rửa tội, để trở nên con người mới, trở nên chi thể Chúa Kitô; và sau cùng, là dấu chỉ ngôi mộ trống mà bài Tin Mừng đêm nay trình thuật. Vậy thì, dấu chỉ ngôi mộ trống này nói lên điều gì? Và chúng ta sẽ sống dấu chỉ này trong cuộc đời chúng ta ra sao?
Nhà bác học Pascal đã tuyên bố rằng: “Con người đứng trước mầu nhiệm Thiên Chúa, thì hãy quỳ gối xuống mà cung kính”. Điểm đặc biệt là, Chúa Kitô sống lại, nhưng sống lại trong thinh lặng, rất âm thầm, không ồn ào, không náo nhiệt. Như thế thì, để nhận ra được Chúa Kitô phục sinh, thì điều trước tiên là chúng ta phải biết cúi xuống để tiến vào bên trong ngôi mộ trống. Chỉ khi nào chúng ta khiêm nhường cúi xuống, gạt bỏ kiêu căng, tự mãn, thì chúng ta mới giống như thánh Gioan: “bước vào ngôi mộ trống, thánh Gioan đã thấy và đã tin” (Ga 20,8).
Bên cạnh việc khiêm nhường cúi xuống, thì tình yêu và đức tin là những điều kiện giúp chúng ta nhận ra Chúa Kitô phục sinh đang hiện diện. Trong tất cả những lần Chúa Kitô phục sinh hiện ra, thi cũng chỉ Con Người Giêsu đó, thế nhưng những kẻ đã từng thân thiết ở với Ngài trước đây, tại sao lại không nhận ra? Thưa, bởi vì Chúa Kitô phục sinh đã mang một khuôn mặt mới, Ngài đang hiện diện trong từng con người. Trong lớp Giáo lý dự tòng, tôi thường hỏi các bạn rằng: Những anh chị em lương dân chưa được rửa tội, có phải là Kitô hữu chưa? Tất cả đều trả lời: Chưa! Bởi vì, họ chưa lãnh nhận phép Rửa tội, chưa thuộc về Giáo hội, chưa là con chính thức của Chúa. Tôi hỏi tiếp: Vậy thì, những anh chị em đó, có phải là con của Chúa không? Tất cả trả lời: Họ là con của Chúa. Thật thế, tất cả mọi người – dù là theo đạo hay chưa theo đạo, đều là con của Chúa, đều mang hình ảnh Thiên Chúa nơi mình.
Dấu chỉ ngôi mộ trống là lời mời gọi mỗi người chúng ta hãy nhận ra Chúa Kitô phục sinh đang sống và hiện diện trong từng người chúng ta. Có hai chi tiết rất lạ lùng trong Bài Tin Mừng đêm nay:
Chi tiết lạ lùng thứ nhất: “Ngày thứ nhất trong tuần, vừa tảng sáng, các bà đi ra mộ, mang theo dầu thơm đã chuẩn bị sẵn… họ không thấy thi hài Chúa Giêsu đâu cả. Họ còn đang phân vân…” (Lc 24,1-4). Các phụ nữ ra mộ chỉ để tìm một Đức Giêsu đã chết, lấy dầu thơm để ướp một xác chết Giêsu mà thôi; không phải tìm một Chúa Kitô phục sinh. Trong thời đại chúng ta hôm nay, cũng có nhiều người giống như các phụ nữ này: Họ nhân danh khoa học tiến bộ để loại trừ Thiên Chúa, tuyên bố Thiên Chúa đã chết; họ loại bỏ tiếng nói của Thiên Chúa ra khỏi lương tâm của mình, để rồi: ngàn ngàn thai nhi vô tội bị giết; bao nhiêu thực phẩm bẩn làm hại sự sống con người; bao nhiêu gia đình tan nát; bao nhiêu cuộc chiến tranh làm triệu triệu con người phải chết…
Chi tiết thứ hai còn lạ lùng hơn nữa, mặc dầu đã được nghe sứ thần loan báo: Đức Giêsu Nadarét, Đấng bị đóng đinh, Ngài sống lại rồi! Đang lúc các bà sợ hãi, cúi gầm xuống đất, thì hai người kia nói: ‘Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết?’” (Lc 24,5). Lạ lùng ở đây là, đáng lẽ các bà phải vui mừng chứ, tại sao lại sợ? Thưa, sợ là vì từ giây phút này trở đi phải nói về Chúa Kitô phục sinh cho người khác; phải mở tung cánh cửa gia đình mình, mở tung cánh cửa giáo xứ, mở tung cánh cửa Giáo hội, bước ra bên ngoài, để nói về Chúa Kitô phục sinh cho những ai chưa nhận ra Ngài. Làm chứng cho những anh chị em đang sống bên cạnh mình; cho hàng xóm láng giềng; cho những người thân yêu trong gia đình mà chưa nhận ra Chúa, hay đã bỏ Chúa… Làm chứng rằng: Chúa Kitô đã phục sinh, Ngài là Đấng yêu thương, đã chịu chết để chúng ta được sống.
Điều sợ khác nữa nơi các phụ nữ, đó là sợ nhận ra Chúa Kitô phục sinh đang hiện diện trong người khác, sao vậy? Sợ, vì phải thay đổi cách sống, cách cư xử của mình đối với người khác. Hãy nhìn sang người đang sống bên cạnh chúng ta, nhìn vào những người thân yêu trong gia đình chúng ta: Chỉ khi nào chúng ta biết nhìn bằng con mắt tình yêu, bằng đức tin, chúng ta mới nhận ra Đấng phục sinh đang hiện diện trong họ. Bình thường nhìn mặt nhau quen quá, chán quá, có khi phát ghét nữa… Nhưng bây giờ cũng khuôn mặt đó, chúng ta nhìn ra bóng dáng của Đấng phục sinh, thì chúng ta phải có cách cư xử khác: chúng ta đối xử với anh chị em mình như thế nào, là chúng ta đối xử với Chúa Kitô phục sinh y như vậy.
Ngay từ khởi đầu Kitô giáo, đặc biệt là từ thế kỷ thứ 12, sau thánh lễ Vọng Mừng Chúa Phục sinh, mỗi tín hữu ra về sẽ nhận được trứng phục sinh. Trứng Phục sinh là biểu tượng của sự khởi đầu. Khi vỏ trứng nứt ra, thì một mầm sống mới bắt đầu, đây là biểu tượng của sự phục sinh, sự sống lại từ cõi chết.
Sau Thánh lễ đêm nay, mỗi người chúng ta đều mang trong mình những mầm sống: mầm sống khiêm nhường cúi xuống để tin nhận Chúa Kitô đã Phục sinh; mầm sống tình yêu và đức tin để nhận ra Chúa Kitô Phục sinh đang hiện diện trong anh chị em của mình, để mà yêu như Chúa Kitô Phục sinh đã yêu; và nơi Bàn tiệc Thánh Thể, Mình và Máu Thánh Chúa Kitô chính là Mầm Sống dồi dào, nuôi dưỡng hồn xác chúng ta, để rồi, khi kết thúc hành trình dương thế này, tất cả mọi người chúng ta đều được Phục sinh vinh hiển với Chúa Kitô.
LM. GIUSE