Lịch sử Giáo hội Công Giáo Việt Nam:  Thành Lập Hàng Giáo Phẩm

Lịch sử Giáo hội Công Giáo Việt Nam:  Thành Lập Hàng Giáo Phẩm
I. Ðức Giám Mục tiên khởi người Việt Nam

– Ngày 11/6/1933 Ðức Cha Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng, nguyên chính xứ Tân Ðịnh (Sàigòn), được Ðức Piô XI tấn phong Giám Mục tiên khởi người Việt Nam tại Ðền Thánh Phêrô tại La-Mã.


 
II. Thành lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam

– Năm 1954: với Hiệp Ðịnh Geneve chia đôi nước Việt Nam thành hai miền Nam và Bắc, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới. Miền Bắc dưới chế Ðộc Tài Cộng Sản, miền Nam dưới chế độ Tự Do Cộng Hòa. Hơn 670,000 giáo dân miền Bắc phải rời bỏ làng xóm để lánh nạn Cộng Sản, di cư vào niềm Nam tìm tự do.

– Ngày 24/11/1960: Trong lúc Giáo Hội tại miền Bắc dưới chế độ Cộng Sản trở nên Giáo Hội thầm lặng, không phát triển được, thì Giáo Hội tại miền Nam dưới chế độ Cộng Hòa đã phát triển mọi mặt, nên ngày 24/11/1960, Ðức Thánh Cha Gioan XXIII đã ra tông hiến Venerabilium Nostrorum thiết lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam với ba Giáo Tỉnh: Hà Nội – Huế – Sàigòn và các lãnh thổ truyền giáo được nâng lên hàng Giáo Phận theo đúng quy luật Giáo Hội hoàn vũ. Tông Hiến này được công bố trong ngày Lễ Ðức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội.

+ Giáo Tỉnh Hà Nội (1679) bao gồm các giáo phận Lạng Sơn (1913), Hải Phòng (1678), Hưng Hóa (1895), Bắc Ninh (1883), Phát Diệm (1901), Bùi Chu (1848), Thái Bình (1936), Thanh Hóa (1932) và Vinh (1846).

+ Giáo Tỉnh Huế (1850) bao gồm các giáo phận Qui Nhơn (1844), Nha Trang (1957), Kontum (1932), Ðà Nẵng (1963), và Ban Mê Thuột (1967).

+ Giáo Tỉnh Sàigòn (1844) bao gồm các giáo phận Vĩnh Long (1938), Cần Thơ (1955) và 3 giáo phận mới là Ðà Lạt (1960), Mỹ Tho (1960), và Long Xuyên (1960). Cùng những giáo khác mới thành được thiết lập sau này: Phú Cường và Xuân Lộc (1966), Phan Thiết (1975).

Ðang lúc đó nhiều cộng đoàn đã được nâng lên hàng tỉnh dòng như dòng Chúa Cứu Thế (1964), Chi dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam (1964), dòng Ða Minh Việt Nam (1967) và dòng Phanxicô Việt Nam (1969), dòng Sư Huynh các trường Công Giáo (1897), dòng các nữ tu thánh Phaolô (1864).

– Năm 1960: Cũng trong Tông Hiến Venerabilium Nostrorum, Tòa Thánh thiết lập thêm 3 địa phận mới:

+ Giáo Phận Ðà Lạt: Gồm các tỉnh Tuyên Ðức, Lâm Ðồng, Quảng Ðức, Phước Long. Tân giáo phận Ðà Lạt trao cho Ðức Cha Simon Hòa Nguyễn Văn Hiền.

+ Giáo Phận Mỹ Tho: Gồm các tỉnh Ðịnh Tường, Kiến Phong. Tân giáo phận Mỹ Tho đặt dưới sự chăm sóc của Ðức Cha Giuse Trần Văn Thiện.

+ Giáo Phận Long Xuyên: Gồm các tỉnh An Giang, Kiên Giang, Chương Thiện. Tân giáo phận Long Xuyên được quản nhiệm bởi Ðức Cha Michael Nguyễn Khắc Ngữ.

Ðức Tân Giám Mục Nguyễn Khắc Ngữ sinh năm 1909 tại địa phận Lạng Sơn (Bắc Việt). Năm 1929, ngài du học tại Pháp và theo học tại chủng viện Lucon, thụ phong linh mục năm 1934 và làm giáo sư chủng viện Lạng Sơn. Năm 1938, ngài được bổ nhiệm làm thư ký Tòa Khâm Sứ Tòa Thánh tại Huế, giúp việc cho Ðức Khâm Sứ Antonin Drapier. Ngài làm cha chánh xứ họ Lục Bình, Mỹ Sơn và bề trên địa phận Lạng Sơn. Ngày 1/12/1960, Tòa Thánh tấn phong ngài làm Giám Mục chánh tòa, coi sóc tân giáo phận Long Xuyên.

– Năm 1960: Tòa Thánh cũng chọn Ðức Cha Phêrô Khuất Văn Tạo làm tân Giám Mục giáo phận Hải Phòng. Ngài cũng làm giám quản giáo phận Bắc Ninh cho đến năm 1963.

– Năm 1960: Cũng trong năm 1960, Tòa Thánh lại chọn cha Phêrô Nguyễn Huy Quang làm tân Giám Mục giáo phận Hưng Hóa.

– Năm 1960: Giáo Phận Thái Bình đón nhận đức tân Giám Mục Ða Minh Ðinh Ðức Trụ, được Tòa Thánh chọn làm giám mục giáo phận Thái Bình ngày 5/3/1960.

– Năm 1960Ðức tân Giám Mục Vincente Phạm Anh Dụ cai quản giáo phận Lạng Sơn được phong Giám Mục ngày 5/3/1960 (nhưng cho tới 1992, nhà cầm quyền Hà Nội mới công nhận). Ngài sinh ngày 14/10/1922 tại Phát Diệm.

– Năm 1963Giáo Phận Ðà Nẵng, gồm hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Tín được thành lập. Tân Giáo Phận được trao cho Ðức Cha Phêrô Phạm Ngọc Chi.

– Năm 1963Tòa Thánh tấn phong Giám Mục cho Linh Mục Phaolô Trần Ðình Nhiên, và đề cử ngài làm Giám Mục phụ tá địa phận Vinh.

– Năm 1963Ðức Cha Giuse Maria Trịnh Văn Căn được đề cử làm Giám Mục phó giáo phận Hà Nội (2/1963).

– Năm 1963Ðức Cha Phaolô Phạm Ðình Tụng, tân Giám Mục giáo phận Bắc Ninh. Ngài sinh 1919 tại họ Cầu Mễ, thuộc xứ Quảng Nạp, giáo phận Phát Diệm. Ngài thụ phong linh mục năm 1949, và được tấn phong Giám Mục ngày 15/8/1963.

– Năm 1964: Tòa Thánh chọn cha Giuse Lê Quí Thanh làm Giám Mục phụ tá giáo phận Phát Diệm.

– Năm 1965: Tòa Thánh chọn cha Giacôbê Nguyễn Ngọc Quang, làm Giám Mục giáo phận Cần Thơ, thay thế Ðức Cha Philiphê Nguyễn Kim Ðiền nhận quyền Tổng Giám Mục Huế.

– Năm 1966: Tòa Thánh cắt các tỉnh Long Khánh, Biên Hòa, Phước Tuy và thị xã Vũng Tàu từ giáo phận Sàigòn, để thành lập Giáo Phận Xuân Lộc, tân giáo phận này được trao cho Ðức Cha Giuse Lê Văn Ấn.

– Năm 1966: Tân Giáo Phận Phú Cường được thành lập, gồm các tỉnh Bình Dương, Tây Ninh, Bình Long, Phước Long. Giáo Phận Phú Cường được trao cho Ðức tân Giám Mục Giuse Phạm Văn Thiên.

– Năm 1966: Giáo phận Sàigòn có thêm Ðức Cha Phanxicô Xaviê Trần Thanh Khâm, Giám Mục phụ tá Tổng Giáo phận Sàigòn.

– Năm 1967Giáo Phận Ban Mê Thuột được thành lập, bao gồm các tỉnh Ðắc Lắc, Quảng Ðức, Phước Long, tân giáo phận được trao cho Ðức Cha Phêrô Nguyễn Huy Mai.

– Năm 1967: Ðức tân Giám Mục Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đảm nhận giáo phận Nha Trang.

– Năm 1967: Ðức Cha Anselmo tadeo Lê Hữu Từ tạ thế. Ðức cố giám mục sinh ngày 28/10/1897 tại làng Di Loan, Quảng Trị, theo học tiểu chủng viện An Ninh, sau đó đại chủng viện Phú Xuân (Huế). trong thời gian học đại chủng viện, ngài xin gia nhập dòng khổ tu Phước Sơn, và thụ phong linh mục ngày 22/12/1928. Ngày 19/7/1945, Tòa Thánh chọn Ngài làm Giám Mục phụ tá giáo phận Phát Diệm. Năm 1946, Ðức Cha Lê Hữu Từ chính thức nhận quyền Giám Mục giáo phận Phát Diệm. Ngày 24/4/1967, Ngài qua đời tại nhà hưu dưỡng Phát Diệm, Xóm Mới, Gò Vấp, thọ 74 tuổi.

– Năm 1968Cha Giacobê Nguyễn Văn Mầu được tấn phong Giám Mục. Ngài là giám mục giáo phận Vĩnh Long, thay thế Ðức Cha Nguyễn Văn Thiện.

– Năm 1968: Ðức Cha Phaolô Nguyễn Ðình Nhiên tạ thế, sau 5 năm làm Giám Mục phụ tá giáo phận Vinh.

– Năm 1971: Ðức Cha Gioan Baotixita Trần Hữu Ðức tạ thế. Ngài sinh năm 1892, tại Phước Tân, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tỉnh. Ngài theo học tại chủng viện Xã Ðoài. Ngày 15/9/1951, được Ðức Cha De Cooman tấn phong Giám Mục. Ngài mất tại Xã Ðoài (Vinh) ngày 5/1/1971, sau 20 năm cai quản giáo phận.

– Năm 1973: Ðức Cha Simon Hòa Nguyễn Văn Hiền tạ thế. Ðức cố giám mục sinh ngày 23/3/1906 tại làng Nhu Lý, Quảng Trị. Ngài gia nhập chủng viện ngày 8/6/1917. Năm 1932, du học tại trường Truyền Giáo Rome. Ngày 21/12/1935, ngài thụ phong linh mục và tiếp tục học tại Rome. Trở về Việt Nam năm 1940, ngài được Tòa Giám Mục Huế bổ nhiệm làm giáo sư trường Thiên Hữu, sau đó làm giám đốc đại chủng viện Kim Long. Ngày 20/9/1955, ngài được Tòa Thánh chọn làm giám mục giáo phận Sàigòn. Năm 1960, ngài được đề cử làm giám mục tân giáo phận Ðà Lạt. Ngài mất ngày 5/7/1973, sau 13 năm cai quản giáo phận Ðà Lạt.

– Năm 1974: Ðức cha Lê Quí Thanh tạ thế. Ðức cố Giám Mục sinh ngày 19/3/1900 tại An Hòa, Duy Tiên, Hà Nam, là cháu ba đời của nhà bác học Lê Quí Ðôn. Ngài thụ phong linh mục ngày 17/3/1934, giáo sư chủng viện Phúc Nhạc, rồi giám đốc trường thày giảng Phát Diệm, giáo sư chủng viện Thượng Kiệm. Ngày mồng Một Tết Giáp thìn (13/2/1964), ngài thụ phong Giám Mục, sau 10 năm giữ chức giám mục phó cho Ðức Cha Bùi Chu Tạo. Ngài qua đời vào ngày 7/5/1974, thọ 74 tuổi.

– Năm 1974: Ðức Cha Ða Minh Hoàng Văn Ðoàn tạ thế. Ðức cố Giám Mục sinh ngày 15/10/1912 tại Trà Lũ, Phú Nhai, Nam Ðịnh. Năm 1927, ngài được chọn vào chủng viện Ninh Cường; năm 1932 theo học lớp Triết tại Giáo Hoàng Học Viện Nam Ðịnh. Qua 3 năm Triết, ngài xin gia nhập dòng Ða Minh Quần Phương. Sau đó, du học tại Ða Minh Học Viện ở Hồng Kông (1/1936). Năm sau ngài qua Bỉ (1937), và Paris (1938). Học nội trú tại Nhà Dòng Etoiles và theo học ban văn chương tại đại học Sorbonne. Cũng năm ấy ngài thụ phong linh mục. Năm 1944, ngài đậu tiến sĩ Thần Học, và dạy tiếng La Tinh, Hi Lạp, Do Thái tại nhà dòng thánh Maximin và đại học Collegessete. Ngày 12/9/1950, ngài thụ phong Giám Mục cai quản giáo phận Bắc Ninh. Năm 1963, nhận quyền Giám Mục giáo phận Qui Nhơn. Ðức Cha Ðaminh Hoàng Văn Ðoàn mất ngày 20/5/1974 tại Qui Nhơn.

– Năm 1974: Ðức Cha Giuse Lê Văn Ấn tạ thế. Ngài mất ngày 17/6/1974, sau 8 năm cai quản giáo phận Xuân Lộc.

– Ngày 11/8/1974: Tòa Thánh tấn phong Ðức Cha Phaolô Huỳnh Ðông Các Giám Mục Giáo Phận Qui Nhơn.

– Năm 1975Giáo Phận Phan Thiết được thiết lập và trao cho Ðức Cha Nicolas Huỳnh Văn Nghi. Ðây là giáo phận thứ 25 được thành lập kể từ khi 2 giáo phận Ðàng Trong và Ðàng Ngoài thành hình.

– Năm 1975: Trước những biến chuyển mau lẹ của chiến tranh tại Việt Nam, trong năm 1975, Tòa đã nhanh chóng thích ứng với những biến chuyển mới của tình hình, đã phong thêm nhiều giám mục khác để cai quản các giáo phận tại Việt Nam trong hoàn cảnh mới:

Tòa Thánh tấn phong cha Phanxicô Nguyễn Quang Sách làm giám mục phụ tá giáo phận Ðà Nẵng.

+ Tân Giám Mục Stephanô Nguyễn Như Thể, Tổng Giám Mục phó Tổng Giáo Phận Huế. (Năm 1983, Ngài đã xin về hưu).

+ Tân Giám Mục Bartolomeo Nguyễn Sơn Lâm, giám mục giáo phận Ðà Lạt. Ngài sinh năm 1929 tại Thanh Hóa, thụ phong linh mục năm 1957, sau đó xin gia nhập tu hội Xuân Bích, một Tu Hội chuyên về giảng dạy trong các chủng viện. Ngài qua Pháp năm 1960, và sang Rome theo học tại đại học Thánh của dòng Ða Minh. Năm 1963, ngài đậu cử nhân Thần Học, tiến sĩ Triết học. Trở về nước ngài dạy Triết học và nhập môn Thánh Kinh tại đại chủng viện Xuân Bích Vĩnh Long trong hai năm. Từ 1966 đến 1975, ngài làm giám đốc đại chủng viện Xuân Bích Huế. Năm 1975, Tòa Thánh bổ nhiệm ngài làm Giám Mục giáo phận Ðà Lạt. (Sau này, Ðức Cha Bartolomêô Nguyễn Sơn Lâm được bổ nhiệm làm Giám Mục Giáo Phận Thanh Hóa ở ngoài Bắc).

+ Tân Giám Mục Alexis Phạm Văn Lộc, giám mục giáo phận Kontum.

Ðức Cha Phaolô Nguyễn Văn Hòa, tân Giám Mục giáo phận Nha Trang.

+ Tòa Thánh thuyên chuyển Ðức Cha Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận từ giáo phận Nha Trang về Sàigòn. Ngài là Tổng Giám Mục phó với quyền kế vị Tổng Giáo Phận Sàigòn.

Ðức Cha Ðaminh Nguyễn Văn Lãng, tân giám mục Giáo Phận Xuân Lộc.

Ðức Cha Nguyễn Minh Nhật, tân giám mục phó với quyền kế vị giáo phận Xuân Lộc.

Ðức tân Giám Mục André Nguyễn Văn Nam, giám mục phụ tá giáo phận Mỹ Tho.

Ðức Cha Raphael Nguyễn Văn Diệp, tân giám mục phụ tá giáo phận Vĩnh Long.

Ðức tân Giám Mục Emmanuel Lê Phong Thuận, giám mục phụ tá giáo phận Cần Thơ.

Ðức Cha Gioan Baotixita Bùi Tuần, giám mục phụ tá giáo phận Long Xuyên.

– Năm 1975: Ðức Cha Giuse Phạm Năng Tĩnh, giám mục giáo phận Bùi Chu từ trần. Ðức cố giám mục thụ phong linh mục vào đầu thập niên 1940 sau nhiều năm phục vụ tại nhiều xứ đạo. Năm 1952, ngài được Ðức Cha Phạm Ngọc Chi mời về làm thư ký tòa Giám Mục. Năm 1954, Ngài theo làn sóng người di cư vào Nam, nhưng chạnh nghĩ lại số phận của hơn 10 ngàn tín hữu giáo dân Bùi Chu còn ở lại, ngài xin trở lại miền Bắc. Ngày 10/11/1960, ngài được Tòa Thánh tấn phong Giám Mục Giáo Phận Bùi Chu. Ngài mất ngày 11/2/1975, sau 15 năm coi sóc giáo phận.

– Năm 1976: Tháng 5 năm 1976, Ðức Tổng Giám Mục Giuse Maria Trịnh Như Khuê, giáo phận Hà Nội, được Ðức Thánh Cha Phaolô VI chọn làm Hồng Y. Ngài là Hồng Y tiên khởi của Việt Nam.

– Năm 1976: Ðức Cha Phanxicô Trần Thanh Khâm, Giám Mục phụ tá giáo phận Sàigòn, tạ thế ngày 2/10/1976, sau 10 năm làm phụ tá giám mục Sàigòn.

– Năm 1977Tòa Thánh đặt linh mục Giuse Nguyễn Thiện Khuyến làm giám mục phụ tá giáo phận Phát Diệm. Lễ tấn phong được cử hành tại nhà thờ Phát Diệm vào ngày 9/3/1977.

– Năm 1978: Nhân dịp tham dự Hội Nghị Giám Mục Thế Giới tại Rome, Ðức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình đã đề nghị và được Tòa Thánh chấp thuận để cha Aloisio Phạm văn Nẫm làm Giám Mục phụ tá giáo phận Sàigòn. Tân giám mục sinh năm 1913, từng là giáo sư, quản lý tiểu chủng viện Thánh Giuse tại Sàigòn. Lễ tấn phong được Ðức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình cử hành tại Sàigòn ngày 2/2/1978.

– Năm 1978: Ðức Cha Phaolô Nguyễn Năng, giám mục giáo phận Vinh, từ trần tại Xã Ðoài, Nghệ An, vào ngày 17/6/1978, hưởng thọ 66 tuổi, sau 28 năm làm linh mục và 10 năm giám mục cai quản giáo phận Vinh.

– Năm 1978: Ðức Hồng Y tiên khởi Giuse Maria Trịnh Như Khuê tạ thế tại Hà Nội. Cố Hồng Y sinh ngày 11/12/1899 tại Tràng Ðức, Hà Nội. Thụ phong linh mục ngày 1/4/1944, tấn phong giám mục ngày 15/8/1960 tại nhà thờ chánh tòa Hà Nội. Ngày 24/11/1960, nhậm chức Tổng Giám Mục, và ngày 14/5/1976 được Ðức Thánh Cha Phaolô VI tấn phong Hồng Y tại Rome. Ngài tạ thế vào sáng thứ Hai, ngày 27/11/1978, hưởng thọ 78 tuổi.

– Năm 1979: Ðức Giám Mục Gioan Baotixita Urrutia (Thi), nguyên giám mục Huế, tạ thế ngày 15/1/1979 tại Montheton, Pháp quốc. Ðức cố giám mục sinh năm 1901, thụ phong linh mục năm 1925, được bổ nhiệm làm việc tại giáo phận Huế. Ngày 17/5/1947, thụ phong giám mục. Năm 1960, Tòa Thánh thiết lập hàng giáo phẩm Việt Nam, ngài trao giáo phận Huế cho Ðức Tổng Giám Mục Ngô Ðình Thục rồi ra hưu trí tại Lavang. Hè 1972, ngài về Huế lánh nạn và sau đó về Pháp. Ðức Giám Mục Thi coi Việt Nam như quê hương thứ hai của ngài, và ao ước được chôn cất thân xác trên giải đất Việt Nam.

– Năm 1979: Tòa Thánh bổ nhiệm cha Phêrô Trần Xuân Hạp làm giám mục giáo phận Vinh, thay thế Ðức Cha Nguyễn Năng, tạ thế năm 1978. Tân giám mục sinh quán tại làng Nhân Hòa (Nghệ An), nguyên linh mục quản hạt Hướng Dương (Quảng Bình). Lễ tấn phong Ðức Giám Mục Hạp được cử hành tại Hà Nội ngày 19/3/1979.

– Năm 1979: Ngày 18/2/1979, Tòa Thánh cũng chọn cha Giuse Nguyễn Tùng Cương, nguyên quản lý Nhà Chung Hà Nội, làm giám mục phụ trách giáo phận Hải Phòng.

– Năm 1979: Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II trao mũ Hồng Y cho Ðức Tổng Giám Mục Giuse Maria Trịnh Văn Căn, Tổng Giám Mục giáo phận Hà Nội, vào ngày 16/5/1979. Ngài là vị Hồng Y thứ hai của Giáo Hội Việt Nam.

– Năm 1979: Ngày 8/8/1979, Tòa Thánh cũng chấp nhận lời đề nghị của Ðức Hồng Y Trịnh Văn Căn, chọn cha Giuse Vũ Duy Nhất làm Giám Mục Giáo Phận Bùi Chu. Lễ tấn phong được Ðức Hồng Y Trịnh Văn Căn chủ tọa tại Hà Nội. Tân giám mục sinh năm 1911, thụ phong linh mục năm 1960, và thụ phong giám mục năm 1979.

– Năm 1979: Ngày 8/12/1979, Tòa Thánh chọn cha Phêrô Giuse Ðinh Bỉnh làm Giám Mục phó giáo phận Thái Bình.

– Năm 1981Tòa Thánh chọn cha Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Sang, cha chánh sở nhà thờ Hà Nội làm giám mục phụ tá giáo phận Hà Nội. Tân Giám Mục xuất thân từ đại chủng viện Xuân Bích từ năm 1953, chịu chức linh mục năm 1960. Từng nhiều năm làm thư ký cho Ðức cố Hồng Y Trịnh Như Khuê, và chánh xứ nhà thờ Hà Nội.

– Năm 1981: Cũng trong năm 1981, Tòa Thánh chấp thuận cha Giuse Trịnh Chính Trực, linh mục chánh sở giáo phận Ban Mê Thuột, làm giám mục giáo phận Ban Mê Thuột. Tân giám mục sinh năm 1925 tại Trác Bút, Hà Nam. Thụ phong linh mục năm 1954 tại Hà Nội. Ngài giữ chức chánh sở địa phận ban Mê Thuột từ ngày 8/9/1967 đến ngày thụ phong giám mục.

– Năm 1981: Ðức Cha Giuse Nguyễn Thiện Khuyến, giám mục phụ tá giáo phận Phát Diệm từ trần. Ðức cố Giám Mục Giuse sinh năm 1900, tại xứ Mỹ Ðiện (Thanh Hóa), sau khi hoàn tất bậc tiểu và đại chủng viện. Ngài thụ phong linh mục ngày 5/4/1930, do cố Giám Mục Marcou truyền chức. Ngài lần lượt coi các xứ Khiết Kỷ, Hiếu Thuận, Tôn Ðạo, Văn Hải, Phúc Hải. Khi Ðức Cha Thanh từ trần (1974), Ngài làm cha chính giáo phận. Ngày 24/4/1977, ngài được tấn phong giám mục tại Phát Diệm, do Ðức Cha Căn chủ phong. Sau 4 năm phục vụ Giáo Hội, ngài qua đời đột ngột ngày 15/12/1981 tại Phát Diệm (Bắc Việt), thọ 81 tuổi.

– Năm 1981Tòa Thánh tấn phong Giám Mục cho linh mục Phêrô Trần Thành Chung, giám mục phụ tá địa phận Kontum. Lễ tấn phong được cử hành tại Kontum ngày 15/8/1981.

– Năm 1982: Ðức Cha Ðaminh Maria Ðinh Ðức Trụ tạ thế. Ðức cố Giám Mục sinh tại Phú Nhai vào ngày 15/1/1908. Thụ phong linh mục 23/5/1938, sau đó được bổ nhiệm làm Giám Ðốc trường Thày Giảng Ðặng Ðức Thuận (Hưng Yên). Ngày 5/3/1960, Tòa Thánh đặt ngài làm Giám Mục hiệu tòa Cataquas, 21 ngày sau ngài được Ðức cố Hồng Y Trinh Như Khuê âm thầm tấn phong giám mục. Ngày 8/11/1960, Ðức Cha Ðinh Ðức Trụ chính thức nhận quyền giám mục địa phận Thái Bình. Ngài tạ thế ngày 7/6/1982.

– Năm 1982Tòa Thánh chọn cha Louis Hà Kim Danh làm giám mục phụ tá giáo phận Phú Cường. Lễ tấn phong được cử hành vào ngày 10/10/1982.

– Năm 1984: Ðức Cha Paul Seitz (Kim) từ trần. Ðức cố giám mục Seitz sinh tại Le Havre năm 1906. Ngài gia nhập hội Thừa Sai Paris (MEP) và đến Việt Nam năm 1937. Sau đó ngài được bổ nhiệm làm cha sở nhà thờ chánh tòa Hà Nội. Năm 1925, Tòa Thánh bổ nhiệm ngài làm giám mục giáo phận Kontum. Ngày 15/8/1975, ngài bị Cộng Sản trục xuất. Trở về Pháp, Ngài cho xuất bản hai cuốn sách nói về tình trạng người dân miền Nam sống dưới chế độ Cộng Sản: cuốn “Le Temps Des Chiens Muets” (Thời của những con chó câm), và cuốn “Les Hommes Debout” (Những người đứng thẳng). Ngày 24/2/1984, ngài từ trần tại Pháp vì bịnh ung thư phổi, hưởng thọ 78 tuổi.

– Năm 1984: Ðức Tổng Giám Mục Phêrô-Martinô Ngô Ðình Thục từ trần. Ðức cố Tổng Giám Mục sinh tại Phú Cam (Huế) vào ngày 6/10/1897. Ngài theo học tiểu chủng viện Phú Xuân. Năm 1919, Ðức Cha Allys (Lý) gửi ngài du học tại Rome, ngài đậu tiến sĩ về triết học, thần học và giáo luật. Ngài thụ phong linh mục ngày 20/12/1925, sau đó giữ chức giáo sư đại chủng viện Phú Xuân, hiệu trưởng trường Providence (Thiên Hựu), chủ nhiệm tờ Sacerdos Indosineses. Năm 1938, Tòa Thánh đặt ngài làm giám mục tiên khởi giáo phận Vĩnh Long. Ngày 24/11/1960, Ðức Thánh Cha Gioan XXIII thiết lập hàng giáo phẩm Việt Nam, và đặt ngài làm Tổng Giám Mục Huế cho đến năm 1965. Ðức Tổng Giám Mục Ngô Ðình Thục mất lúc 11 giờ ngày 13/12/1984 tại bệnh viện St. John (Joplin, Missouri). Lễ an táng được cử hành lúc 11 giờ ngày 22/12/1984 tại giáo phận Springfield – Cape Giardeau.

– Năm 1985: Ðức Cha Phêrô Maria Nguyễn Huy Quang, giám mục giáo phận Hưng Hóa, từ trần vào ngày 13/11/1985, tại Nhà Chung Sơn Tây, Bắc Việt, hưởng thọ 78 tuổi.

– Năm 1987: Ðức Cha Ðaminh Lê Hữu Cung, Giám Mục giáo phận Bùi Chu, tạ thế ngày 12/3/1987, tại Bùi Chu, Bắc Việt Nam.

– Năm 1987: Ðức Cha Giuse Phan Văn Hoa, giám mục phụ tá giáo phận Qui Nhơn, tạ thế ngày 6/10/1987, sau 12 năm làm giám mục phụ tá giáo phận.

– Năm 1988: Ðức Cha Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi qua đời. Ðức Cố giám mục sinh ngày 1909 tại Tôn Ðạo, Kim Sơn, Ninh Bình. Năm 1920, ngài gia nhập nhà tập Ba Làng (Thanh Hóa), tiểu chủng viện Phúc Nhạc. Năm 1927, ngài du học tại trường truyền giáo Rome, thụ phong linh mục ngày 23/12/1933 và tiếp tục học tại đại học Apollinaire. Ngài đậu Tiến Sĩ triết học, cử nhân Thần Học, và cử nhân văn chương, giáo luật. Năm 1936, ngài hồi hương và nhận chức giáo sư đại chủng viện Phát Diệm. Năm 1950, ngài được Tòa thánh bổ nhiệm làm giám mục giáo phận Bùi Chu. Sau hiệp định Geneve (20/7/1954), ngài được ủy thác trông coi hàng giáo sĩ và giáo dân di cư. Ngày 5/7/1957, ngài được đề cử cai quản giáo phận Qui Nhơn. Sau đó, ngày 18/1/1963, Ðức Thánh Cha Gioan XXIII đặt ngài làm Giám Mục tiên khởi giáo phận Ðà Nẵng. Ðức Cha Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi mất tại Ðà Nẵng ngày 21/1/1988, sau 25 năm cai quản giáo phận Ðà Nẵng.

– Năm 1988: Ðức Tổng Giám Mục Philiphe Nguyễn Kim Ðiền qua đời. Cố Tổng Giám Muc Philiphe sinh năm 1921 tại Gia Ðịnh. Ngài gia nhập dòng Tiểu Ðệ của cha Charles de Foucauld, sau đó ngài qua Phi Châu. Năm 1957, cha Ðiền trở về Việt Nam và làm cho hãng khuân vác tại bến tầu. Ngày 24/10/1960, Tòa Thánh chọn ngài làm Giám Mục tiên khởi giáo phận Cần Thơ, sau đó nhận chức Tổng Giám Mục Huế (1965). Ngài qua đời ngày 8/6/1988 tại Huế. Ngài xứng danh được gọi là chiến sĩ quốc gia, vì ngài đã mạnh mẽ lên án nhóm linh mục “quốc doanh”. Ngài bị Cộng Sản làm khó dễ, và bị quản thúc tại tòa Giám Mục. Cái chết của ngài là một thiệt thòi cho Giáo Hội và Tổ Quốc Việt Nam.

– Năm 1988: Ðức Cha Ðaminh Nguyễn Văn Lãng, giám mục giáo phận Xuân Lộc, từ trần ngày 19/12/1988. Trước khi được tấn phong giám mục, ngài đã từng là giám đốc đại chủng viện Thánh Thomas Long Xuyên, và giữ nhiều chức vụ quan trọng tại giáo phận Long Xuyên.

– Năm 1988Tòa Thánh đã chọn cha Giuse Nguyễn Văn Yến làm giám mục phó giáo phận Phát Diệm. Ðức tân Giám Mục sinh ngày 26/12/1942 tại Vĩnh Trị, Kẻ Vĩnh (Hà Nội). Từ năm 1954 tới 1960, ngài theo học tại tiểu chủng viện Hà Nội. Trong lúc đang theo học, nhà nước ra lệnh đóng cửa chủng viện, thày Yến ra ngoài làm thợ may suốt 13 năm dài. Năm 1973, thày trở lại chủng viện, và thụ phong linh mục năm 1977. Ngày 14/11/1988, cha Yến được Tòa Thánh chính thức bổ nhiệm làm giám mục phụ tá giáo phận Phát Diệm. Lễ tấn phong được cử hành ngày 16/12/1988.

– Năm 1989: Ðức Cha Giuse Phan Thế Hinh, giám mục Hưng Hóa, tạ thế. Ðức cố Giám Mục sinh ngày 27/10/1928, thụ phong linh mục năm 1973. Năm 1976, ngài được Tòa Thánh bổ nhiệm giám mục phó giáo phận Hưng Hóa. Ngày 13/11/1985, khi Ðức Cha Phêrô Nguyễn Huy Quang qua đời, Ðức Cha Phan Thế Hinh lên kế vị trong việc coi sóc giáo phận, ngài qua đời sáng chủ nhật 22/1/1989.

– Năm 1989: Ngày 15/12/1989, Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã bổ nhiệm cha Giuse Nguyễn Quang Tuyến làm Giám Mục phụ tá giáo phận Bắc Ninh. Ngài thụ phong linh mục bí mật vào năm 1975, nhưng mãi đến 1980 mới được nhà nước chấp thuận. Từ 1988, ngài được bổ nhiệm làm cha chánh sở nhà thờ Bắc Ninh, và ngày 15/12/1989 được Tòa Thánh tấn phong giám mục. Lễ tấn phong do Ðức Cha Phạm Ðình Tụng cử hành vào ngày 15/1/1989.

– Năm 1989: Ðức Cha Giuse Trần Văn Thiện, giám mục giáo phận Mỹ Tho, tạ thế ngày 24/2/1989, thọ 81 tuổi. Ðức Cố giám mục sinh tại Long Ðiền (Phước Tuy) ngày 1/10/1908, thụ phong linh mục ngày 21/9/1935, sau một thời gian làm cha phó, cha Thiện du học tại Pháp. Hồi hương năm 1947, ngài được cử làm giám đốc Chủng Viện Thánh Minh. Năm 1958, ngài được cử làm Viện Trưởng Ðại Học Ðà Lạt, và ngày 24/11/1960 ngài được bổ nhiệm làm giám mục tiên khởi giáo phận Mỹ Tho.

– Năm 1989: Ðức Cha Giuse Ðinh Bỉnh, từ trần ngày 14/3/1989 tại Tòa Giám Mục Thái Bình. Ngài nguyên là giám mục phụ tá của cố giám mục Ðinh Ðức Trụ, và được Tòa Thánh chỉ định coi sóc giáo phận Thái Bình sau khi Ðức Cha Trụ qua đời.

– Năm 1990: Ðức Cha Phêrô Phạm Tần, giám mục giáo phận Thanh Hóa, tạ thế lúc 4 giờ sáng ngày 1/2/1990 tại Tòa Giám Mục Thanh Hóa, hưởng thọ 77 tuổi.

– Năm 1990: Ðức Hồng Y Giuse Maria Trịnh Văn Căn tạ thế. Ðức cố Hồng Y sinh tại Bút Ðông, Hà Nam, ngày 19/3/1921. Thụ phong linh mục ngày 8/12/1949, và được chọn làm Tổng Giám Mục phó hiệu tòa giáo phận Hà Nội ngày 5/2/1963. Nhận mũ giám mục ngày 2/6/1963 tại nhà thờ chính tòa Hà Nội, và nhận mũ Hồng Y từ Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II ngày 26/5/1979. Ngài là vị Hồng Y thứ hai của Giáo Hội Việt Nam. Ngài tạ thế vào ngày thứ Sáu 18/6/1990 tại Tòa Tổng Giám Mục Hà Nội, thọ 69 tuổi, sau 41 năm linh mục, 27 năm giám mục và 11 năm với chức vụ Hồng Y. Lễ an táng do Ðức Hồng Y Etchegaray cử hành vào lúc 10 giờ sáng thứ Tư ngày 23/6/1990.

– Năm 1990: Ðức Cha Giacôbê Nguyễn Ngọc Quang, giám mục giáo phận Cần Thơ, tạ thế ngày 20/6/1990 tại Cần Thơ, hưởng thọ 81 tuổi, sau 25 năm cai quản giáo phận. Ðức cố Giám Mục sinh năm 1909 tại Sàigòn, thụ phong linh mục năm 1935 và giám mục năm 1965.

– Năm 1990: Ðức Cha Phêrô Nguyễn Huy Mai tạ thế. Cố giám mục sinh tại  Khuyển Lương, Hà Nội ngày 3/7/1913. Năm 1967, ngài được Tòa Thánh bổ nhiệm làm giám muc tiên khởi giáo phận Ban Mê Thuột. Ngài qua đời vào lúc 6 giờ ngày 4/8/1990, thọ 77 tuổi, sau 23 năm cai quản giáo phận Ban Mê Thuột. Lễ an táng được cử hành vào ngày 8/8/1990. Ðức Cha Trịnh Chính Trực làm Giám Mục Giáo Phận Ban Mê Thuột thay thế Ðức Cha Nguyễn Huy Mai.

– Năm 1990Tòa Thánh chỉ định Ðức Cha Phạm Ðình Tụng, giám mục giáo phận Bắc Ninh, kiêm giám quản tổng giáo phận Hà Nội. Và Ðức Cha Nguyễn Văn Sang nhận chức Giám Mục Giáo Phận Thái Bình.

– Năm 1991Ðức Cha Nguyễn Phụng Hiểu được cử làm tân giám mục giáo phận Hưng Hóa. Ngày 11/4/1991, các Ðức Giám Mục Việt Nam đã đến nhà thờ chính tòa Hưng Hóa để tham dự lễ truyền chức giám mục cho Ðức Cha Giuse Nguyễn Phụng Hiểu. Ðức Cha Phaolô Phạm Ðình Tụng, Giám Mục Bắc Ninh, kiêm giám quản tổng giáo phận Hà Nội, là vị chủ phong. Ðức Tổng Giám Mục Alberto Tricarico, Sứ Thần Tòa Thánh tại Thái Lan, Lào, Miến Ðiện và Mã Lai cũng đên tham dự, và chuyển lời chào mừng và phép lành của Ðức Thánh Cha tới Ðức tân Giám Mục.

– Năm 1991Ðức Cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn được Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II bổ nhiệm ngày 19/10/1991 làm Giám Mục phụ tá Giáo Phận Ðà Lạt với quyền kế vị. Sau thời gian theo học tại tiểu chủng viện Sàigòn (1948-1958), ngài theo học tại Giáo Hoàng Học Viện Piô X Ðà Lạt, đậu cử nhân văn chương Pháp tại Ðại Học Ðà Lạt. Ngài được Ðức cố Giám Mục Simon Hòa Hiền truyền chức linh mục ngày 21/12/1967, được bổ nhiệm làm giáo sư c chủng viện Ðà Lạt (1971-1975). Từ 1975 ngài làm cha chánh sở nhà thờ chính tòa kiêm tổng đại diện giáo phận Ðà Lạt. Thánh lễ truyền chức giám mục do Ðức Cha Nguyễn Sơn Lâm, Giám Mục giáo phận Ðà Lạt, chủ tế với sự hiện diện của Ðức Cha Nicholas Huỳnh Văn Nghi, Giám Mục Phan Thiết, và Ðức Cha Phaolô Nguyễn Văn Hòa, Giám Mục Nha Trang, cùng hơn 15 ngàn tín hữu.

– Năm 1992: Ngày 15/2/1992, Ðức Cha Stephanô Nguyễn Như Thể, Giám Mục hiệu tòa Tipasa di Mauritania, nguyên giám mục phó giáo phận Huế, đã được Ðức Thánh Cha bổ nhiệm làm thành viên Hội Ðồng Ðối Thoại Liên Tôn với nhiệm kỳ là 5 năm. Ðức Cha Thể sinh ngày 1/12/1935 tại Quảng Trị, chịu chức linh mục ngày 6/1/1962. Ngày 7/9/1975, ngài được Ðức cố Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Ðiền tấn phong làm Giám Mục phó giáo phận Huế, chiếu theo đặc quyền của Tòa Thánh ban cho các giám mục Việt Nam lúc bấy giờ. Tuy nhiên ngày 23/11/1983, ngài được Tòa Thánh chấp nhận đơn từ chức. Với việc bổ nhiệm trên đây, Ðức Cha Thể là vị giám mục Việt Nam duy nhất là thành viên của một cơ quan Tòa Thánh, và như vậy sẽ được mời tới Rome tham dự các phiên họp khoáng đại 2 năm một lần của Hội Ðồng nói trên.

– Năm 1992Lễ truyền chức giám mục cho Ðức Cha Thomas Nguyễn Văn Trâm, tân giám mục phụ tá giáo phận Xuân Lộc, đã được cử hành trọng thể hôm 7/5/1992 tại khuôn viên Tòa Giám Mục Xuân Lộc, do Ðức Cha Nguyễn Minh Nhật chủ phong, trước sự hiện diện của hàng chục ngàn tín hữu. Ðồng tế Thánh Lễ còn có 15 vị giám mục và 530 linh mục khác. Ðức tân Giám Mục sinh ngày 9/1/1942 tại Phước Tuy. Sau khi theo học tiểu chủng viện và đại chủng viện Thánh Giuse, Thày Trâm thụ phong linh mục ngày 29/4/1969 rồi được bổ nhiệm làm cha phó một họ đạo tại Biên Hòa. Một năm sau đó, cha du học tại Rome ở trường Thánh Phêrô 4 năm (1970-1974) và đậu tiến sĩ giáo luật tại Ðại Học Giáo Hoàng Urbaniana của Bộ Truyền Giáo. Trở về Việt Nam, cha Trâm được Ðức Ðức cố Giám Mục Nguyễn Văn Lãng chọn làm bí thư và giám đốc chủng viện Xuân Lộc từ 1975 đến 1979.

– Năm 1992: Ðức Cha Giuse Nguyễn Phụng Hiểu tạ thế, tại Thủ Ðức lúc 2giờ30 chiều ngày 9/5/1992, hưởng thọ 70 tuổi, sau gần 3 tháng làm giám mục giáo phận Hưng Hóa. Với sự ra đi của Ðức Cha Hiểu, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam vào lúc này (khoảng cuối năm 1992) còn 32 vị Giám Mục, và còn 4 giáo phận chưa có giám mục chính tòa coi sóc là Hà Nội, Hưng Hóa, Huế và Thanh Hóa. Ðức cố Giám Mục Hiểu sinh tại Hàm Phu, Ninh Bình, ngày 19/3/1921, thụ phong linh mục năm 1951, đã từng bị giam cầm và bị quản thúc hơn 10 năm trời. Ngài được bổ nhiệm giám mục chính tòa Hưng Hóa ngày 11/3/1990. Ngày 19/9/1991, ngài phải sang Rome chữa bệnh phổi và ngày 7/10/1991 ngài được giải phẫu tại nhà thương Piô XI và được bác sĩ xác nhận là ngài bị ung thư phổi. Hôm 7/5/1992, dù kiệt sức, ngài vẫn cố gắng đi dự lễ tấn phong Giám Mục Thomas Nguyễn Văn Trâm, và hai hôm sau ngài từ trần tại Thủ Ðức.

– Năm 1992: Ngày 24/7/1992, Tòa Thánh đã bổ nhiệm cha Phaolô Maria Cao Ðình Thuyên làm giám mục phó với quyền kế vị giáo phận Vinh. Ðức tân Giám Mục sinh tại Trảng Lưu năm 1926. Sau khi hoàn tất học tiểu và đại chủng viện Vinh, năm 1960 thầy Thuyên thụ phong linh mục, sau đó được chỉ định làm cha sở và năm 1974 giữ chức quản lý giáo phận. Từ 1980, cha Thuyên được Ðức Cha Hạp chỉ định làm tổng đại diện địa phận Vinh. Với việc tấn phong Ðức Cha Cao Ðình Thuyên, Giáo Hội Việt Nam vào lúc này (khoảng cuối năm 1992) có 33 vị giám mục, kể cả Ðức Cha Stephanô Nguyễn Như Thể, nguyên Giám Mục phó giáo phận Huế.

III. Ðức Hồng Y tiên khởi và các Hồng Y người Việt Nam

– Ngày 24/5/1976 Ðức Tổng Giám Mục Hà Nội Giuse Maria Trịnh Như Khuê được Ðức Phaolô VI bổ nhiệm Hồng Y thứ nhất người Việt Nam.

– Ngày 27/11/1978, Ðức Hồng Y Giuse Maria Trịnh Như Khuê tạ thế. Ðức Gioan Phaolô II, vào ngày 30/6/1979, đã bổ nhiệm Ðức Tổng Giám Mục Giuse Maria Trịnh Văn Căn lên chức vụ Hồng Y thứ hai người Việt Nam.

– Ngày 18/6/1990, Ðức Hồng Y Giuse Maria Trịnh Văn Căn tạ thế. Ðức Gioan Phaolô II, vào ngày 26/11/1994, đã bổ nhiệm Ðức Tổng Giám Mục Phaolô Giuse Phạm Ðình Tụng lên chức vụ Hồng Y thứ ba người Việt Nam.

– Ngày 21/2/2001, Ðức Gioan Phaolô II đã bổ nhiệm Ðức Tổng Giám Mục Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, chủ tịch Hội Ðồng Tòa Thánh về Công Lý Và Hòa Bình,  lên chức vụ Hồng Y thứ tư người Việt Nam.

(Các tài liệu được trích dẫn từ:

– tập sách Giáo Hội Việt Nam của  Ðức Ông Vinh Sơn Trần Ngọc Thụ.

– bài Tìm Hiểu Giáo Hội Việt Nam của Nguyễn Vũ Tuấn Linh.

– Lịch Sử Giáo Hội Việt Nam, của Linh Mục Phan Phát Huồn, CssR.)

Nguồn: W.HĐGMVN
Liêm Đình