THỨ HAI TRONG TUẦN BÁT NHẬT PHỤC SINH NĂM C
TIN MỪNG: Mt 28, 8 – 15
8 Khi ấy, các người phụ nữ vội vã rời khỏi mộ, tuy sợ hãi nhưng cũng rất đỗi vui mừng, chạy về báo tin cho môn đệ Đức Giê-su hay.
9 Bỗng Đức Giê-su đón gặp các bà và nói : “Chào chị em !” Các bà tiến lại gần Người, ôm lấy chân, và bái lạy Người. 10 Bấy giờ, Đức Giê-su nói với các bà : “Chị em đừng sợ ! Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Ga-li-lê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó.”
11 Các bà đang đi, thì có mấy người trong đội lính canh mồ vào thành báo cho các thượng tế biết mọi việc đã xảy ra. 12 Các thượng tế liền họp với các kỳ mục ; sau khi bàn bạc, họ cho lính một số tiền lớn, 13 và bảo : “Các anh hãy nói như thế này : Ban đêm đang lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ của hắn đã đến lấy trộm xác. 14 Nếu sự việc này đến tai quan tổng trấn, chính chúng tôi sẽ dàn xếp với quan và lo cho các anh được vô sự.” 15 Lính đã nhận tiền và làm theo lời họ dạy. Câu chuyện này được phổ biến giữa người Do-thái cho đến ngày nay.
SUY NIỆM:
VƯỢT QUA NỖI SỢ
Lời Chúa hôm nay thuật lại cho chúng ta sự kiện các bà phụ nữ ra viếng mồ Chúa, nhưng không còn thấy xác Người. Các bà vội vã trở về, với tâm trạng vừa sợ hãi, vừa rất đỗi vui mừng. Họ sợ — có thể vì lo sợ người Do Thái bắt bớ, hoặc bị cáo buộc là đã lấy xác Chúa. Nhưng họ cũng rất mừng, vì đã được nghe tin rằng Đấng mà họ yêu mến đã sống lại.
Sự sống lại của Đức Kitô là trung tâm của đức tin Kitô giáo, là niềm vui lớn nhất của người. Nhưng trong thực tế sống đạo, niềm vui đó không phải lúc nào cũng rõ ràng, vì nhiều nỗi sợ hãi đã và đang len lỏi, làm lu mờ ánh sáng Phục Sinh trong lòng người tín hữu.
Sợ bị Thiên Chúa phán xét và luận phạt: Nhiều người sống đạo mà luôn bị ám ảnh bởi sự phán xét của Thiên Chúa. Họ lo mình không đủ tốt, sợ bị loại trừ khỏi ơn cứu độ. Chính vì vây chúng ta cần phải vượt qua nỗi sợ này để sống trọn niềm vui vì được làm con cái Chúa, niềm vui sống đạo trong tình yêu với Ngài.
Sợ đau khổ, bệnh tật và cái chết: Khi đối diện với giới hạn thể lý và tinh thần, người Kitô hữu dễ rơi vào lo âu, sợ hãi, mất niềm vui phó thác. Vì vậy chúng ta cần vượt qua nỗi sợ này để sống niềm vui trọn vẹn phó thác vào Chúa, sống niềm vui trong hành trình hy vọng cùng với Đấng Phục Sinh của mình.
Sợ bị hiểu lầm, bị bách hại vì sống đức tin: Trong xã hội hôm nay, sống theo giá trị của Tin Mừng không phải là điều dễ dàng. Sợ bị coi là “khác người”, bị chỉ trích hay xa lánh khiến ta né tránh sống thật với Tin Mừng. Chính vì vậy chúng ta cần phải vượt qua nỗi sợ này để đón nhận niềm vui và sống chứng nhân giá trị tin Mừng của Chúa ngay giữ cuộc đời trần gian này.
Sợ yếu đuối trước cám dỗ và tội lỗi: Không ít người vì quá sợ mình sa ngã, đã mất đi động lực để dấn thân. Vì vậy chúng ta cần phải vượt qua nỗi sợ này để tìm lại niềm vui khi phục vụ, trở nên hăng hái hơn và can đảm dấn thân với ơn gọi sống thánh thiện riêng của mình.
Sợ cô đơn và cảm giác Thiên Chúa im lặng: đây có lẽ là điều mà nhiều người ki tô hữu rất sợ, nhất là trong những lúc đau khổ vì đau bệnh, vì bế tắc trong cuộc sống nhiều người cảm thấy Thiên Chúa xa vắng. Họ cô đơn trong đức tin, mất đi niềm vui được ở lại bên Chúa trong thinh lặng và tín thác. Lời Chúa mời gọi chúng ta vượt qua nỗi sợ này để chia sẻ những đau khổ thập giá mà Chúa Giê-su đã bước qua.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, Xin ở lại với chúng con, đừng để những nỗi sợ hãi âm thầm làm tắt ngọn lửa yêu mến trong lòng chúng con. Xin ban cho chúng con niềm vui Phục Sinh đích thực — một niềm vui mạnh mẽ hơn mọi sợ hãi — để chúng con can đảm sống đạo, sống yêu thương và phục vụ anh chị em mỗi ngày, hăng say bước theo Chúa trên hành trình hiệp thông và hy vọng. Amen.
THỨ BA TRONG TUẦN BÁT NHẬT PHỤC SINH NĂM C
TIN MỪNG: Ga 20, 11 – 18
11 Khi ấy, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đứng ở ngoài, gần bên mộ, mà khóc. Bà vừa khóc vừa cúi xuống nhìn vào trong mộ, 12 thì thấy hai thiên thần mặc áo trắng ngồi ở nơi đã đặt thi hài của Đức Giê-su, một vị ở phía đầu, một vị ở phía chân. 13 Thiên thần hỏi bà : “Này bà, sao bà khóc ?” Bà thưa : “Người ta đã lấy mất Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ để Người ở đâu !” 14 Nói xong, bà quay lại và thấy Đức Giê-su đứng đó, nhưng bà không biết là Đức Giê-su. 15 Đức Giê-su nói với bà : “Này bà, sao bà khóc ? Bà tìm ai ?” Bà Ma-ri-a tưởng là người làm vườn, liền nói : “Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về.” 16 Đức Giê-su gọi bà : “Ma-ri-a !” Bà quay lại và nói bằng tiếng Híp-ri : “Ráp-bu-ni !” (nghĩa là ‘Lạy Thầy’). 17 Đức Giê-su bảo : “Thôi, đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha. Nhưng hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ : ‘Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em’.” 18 Bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi báo cho các môn đệ : “Tôi đã thấy Chúa”, và bà kể lại những điều Người đã nói với bà.
TIẾNG CHÚA GỌI – SỰ THỨC TỈNH CỦA TÂM HỒN
Lời Chúa hôm nay thuật lại câu chuyện bà Maria Mađalêna đứng khóc bên ngôi mộ trống, lòng đầy xót xa vì tưởng xác Thầy đã bị lấy đi. Khi nhìn thấy Chúa Giêsu, bà không nhận ra Người, cứ ngỡ đó là người làm vườn. Thế nhưng, chỉ một tiếng gọi đơn sơ mà đầy yêu thương của Chúa Giê-su: “Maria!” đã làm thức tỉnh tâm hồn bà, bà lập tức nhận ra Đấng Phục Sinh và thốt lên: “Rabbuni!” (Lạy Thầy). Chính tiếng gọi ấy đã làm bừng tỉnh tâm hồn bà đang ngụp lặn trong bóng tối và đau khổ, giúp bà nhận ra Chúa đang hiện diện thật gần, thật sống động.
Câu chuyện ấy cũng là lời nhắc nhở cho mỗi người chúng ta hôm nay: tiếng gọi của Chúa vẫn không ngừng vang vọng trong cuộc đời, để thức tỉnh những gì đang bị ngủ quên trong lòng chúng ta.
Thức tỉnh niềm hy vọng giữa bóng tối tuyệt vọng: Khi đối diện với đau khổ, bệnh tật, mất mát, nhiều khi ta tưởng như mọi sự đã chấm hết. tuy nhiên xuyên qua những đau khổ ấy, tiếng gọi của Chúa vẫn đang âm thầm vang dội “Đừng sợ, Ta ở đây!” để khơi lên niềm hy vọng mới trong lòng ta, giúp chúng ta đứng dậy và bước tiếp.
Thức tỉnh lương tâm đang ngủ mê: chúng ta đang sống giữa một thế giới đầy cám dỗ và cuốn hút và thỏa hiệp, chính vì thế nó làm cho lương tâm chúng ta bị ngủ mê trong hưởng thụ tội lỗi. vì vậy tiếng gọi của Chúa sẽ là lời cảnh tỉnh, mời gọi ta nhìn lại mình, thức tỉnh những đam mê để can đảm hoán cải và trở về.
Thức tỉnh lòng yêu mến đã nguội lạnh: trong thực hành đức tin nhiều khi vì những việc làm như dự lễ, đọc kinh, cầu nguyện …đã trở thành thói quen thì nó sẽ làm tâm hồn mình trở nên khô khan, và việc làm chỉ là hình thức. Tiếng gọi của Chúa sẽ giúp ta khơi lại tình yêu ban đầu – một tình yêu nồng nàn, sống động và chân thành với Chúa.
Bên cạnh đó tiếng chúa còn Thức tỉnh tinh thần trách nhiệm và sứ vụ sứ vụ của mình để chúng ta sống trách nhiệm trong gia đình, cộng đoàn và sẵn sàng lên đường làm chứng cho Tin Mừng; Thức tỉnh khát vọng nên thánh giữa cuộc sống thường ngày để giúp chúng ta biết khát khao sống tốt lành, chân thật và thánh thiện như Người mong ước.
Lạy Chúa Giê-su Phục Sinh, xin cho con luôn biết lắng nghe tiếng Ngài trong từng biến cố đời thường trong cuộc sống để con được thức tỉnh tâm hồn, bước ra khỏi nấm mồ của sự khô cứng, sợ hãi, nguội lạnh… và sống một đời sống mới tràn đầy ánh sáng và niềm vui Phục Sinh. Amen.
THỨ TƯ TRONG TUẦN BÁT NHẬT PHỤC SINH NĂM C
TIN MỪNG: Lc 24, 13 – 35
13 Vào ngày thứ nhất trong tuần, có hai người trong nhóm môn đệ đi đến một làng kia tên là Em-mau, cách Giê-ru-sa-lem chừng mười một cây số. 14 Họ trò chuyện với nhau về tất cả những sự việc mới xảy ra. 15 Đang lúc họ trò chuyện và bàn tán, thì chính Đức Giê-su tiến đến gần và cùng đi với họ. 16 Nhưng mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Người. 17 Người hỏi họ : “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy ?” Họ dừng lại, vẻ mặt buồn rầu.
18 Một trong hai người tên là Cơ-lê-ô-pát trả lời : “Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giê-ru-sa-lem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay.” 19 Đức Giê-su hỏi : “Chuyện gì vậy ?” Họ thưa : “Chuyện ông Giê-su Na-da-rét. Người là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. 20 Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình, và đã đóng đinh Người vào thập giá. 21 Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en. Hơn nữa, những việc ấy xảy ra đến nay là ngày thứ ba rồi. 22 Thật ra, cũng có mấy người đàn bà trong nhóm chúng tôi đã làm chúng tôi kinh ngạc. Các bà ấy ra mộ hồi sáng sớm, 23 không thấy xác Người đâu cả, về còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng Người vẫn sống. 24 Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự việc y như các bà ấy nói ; còn chính Người thì họ không thấy.”
25 Bấy giờ Đức Giê-su nói với hai ông rằng : “Các anh chẳng hiểu gì cả ! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ ! 26 Nào Đấng Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao ? 27 Rồi bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh.
28 Khi gần tới làng họ muốn đến, Đức Giê-su làm như còn phải đi xa hơn nữa. 29 Họ nài ép Người rằng : “Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn.” Bấy giờ Người mới vào và ở lại với họ. 30 Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ. 31 Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất. 32 Họ mới bảo nhau : “Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao ?”
33 Ngay lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở lại Giê-ru-sa-lem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó. 34 Những người này bảo hai ông : “Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Si-môn.” 35 Còn hai ông thì thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh.
SUY NIỆM:
LỜI CHÚA SƯỞI ẤM TRÁI TIM CON
“Lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh đó sao?” (Lc 24,32)
Trên hành trình từ Giêrusalem về làng Emmaus, hai môn đệ ngập chìm trong u buồn và thất vọng. Họ từng đặt niềm tin nơi Chúa Giêsu, nhưng từ cái chết của Ngài, mọi hy vọng như vụt tắt. Chính lúc ấy, Chúa Giêsu hiện ra và đồng hành với họ. Dù không nhận ra Ngài, nhưng lời Người nói đã bắt đầu lay động tâm hồn họ. Đó không chỉ là những lời giải thích về Kinh Thánh, mà là chính Lời Sự Sống, mang sức mạnh làm bừng cháy niềm tin đang nguội lạnh.
Trong cuộc sống của chúng ta cũng vậy có rất nhiều điều làm cho trái tim của chúng ta trở nên lạnh lùng và trai đá, chúng là mất đi niềm hy vọng trong cuộc sống của mình. Vì vậy chúng ta cũng cần phải được Lời Chúa sưởi ấm trái tim mỗi người chúng ta.
Dưới đây là một số điều trong cuộc sống đời thường dễ khiến tâm hồn chúng ta nguội lạnh, cần được Lời Chúa sưởi ấm lại:
Những thất vọng và vấp ngã trong cuộc sống: khi những điều ta hy vọng không xảy ra, khi kế hoạch đổ vỡ, khi cố gắng mà vẫn thất bại… dễ khiến ta nản lòng và mất phương hướng.
Những tổn thương trong các mối tương quan: Khi bị hiểu lầm, bị phản bội, bị xúc phạm… trái tim dễ đóng lại vì sợ đau thêm. Ta trở nên khép kín, lạnh lùng, thậm chí cay đắng.
Những lo toan và áp lực thường ngày: Cơm áo gạo tiền, công việc, học hành, trách nhiệm… đôi khi làm ta kiệt sức và dần trở nên xa lánh với mọi người xung quanh.
Cảm giác cô đơn và bị bỏ rơi: sống trong xã hội ồn ào và vồn vã lắm lúc lại làm cho chúng ta trở nên cô đơn và lạc lõng, có lúc ta cảm thấy như chẳng ai hiểu mình, chẳng ai đồng hành. Ngay cả trong gia đình, cộng đoàn, hay giữa đám đông, ta vẫn thấy lạc lõng.
Tội lỗi và sự mặc cảm: Khi phạm lỗi, ta có thể cảm thấy xấu hổ, tự trách, và nghĩ mình không xứng đáng đến gần Chúa và với anh chị em. Bên cạnh đó sự mặc cảm về khả năng, sự thành công, trí thức, nhan sắc đôi lúc cũng làm cho tâm hồn của chúng ta trở nên mệt mỏi.
Thói quen sống vội, sống gấp: Cuộc sống hiện đại khiến ta chạy theo công việc, mạng xã hội, giải trí… mà quên dừng lại để lắng nghe chính mình và nghe Chúa.
Lạy Chúa, Có quá nhiều điều trong cuộc sống đang bủa vây con, khiến tâm hồn con ngày càng kiệt quệ và trở nên lạnh lùng với cuộc sống, với mọi người. Con dần đánh mất niềm hy vọng – vào cuộc sống, vào Chúa và cả chính bản thân mình.
Lạy Chúa, xin Ngài hãy dùng Lời của Ngài để chiếu soi tâm hồn chúng con, sưởi ấm những trái tim đang bị đóng băng. Xin giúp con trở nên một người biết sống yêu thương như Chúa đã yêu thương chúng con, và trở thành ánh sáng hy vọng cho cuộc đời – cho chính con và cho những người xung quanh. Amen.
THỨ NĂM TRONG TUẦN BÁT NHẬT PHỤC SINH NĂM C
TIN MỪNG: Lc 24, 35 – 48
35 Khi ấy, hai môn đệ từ Em-mau trở về, thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh.
36 Các ông còn đang nói, thì chính Đức Giê-su đứng giữa các ông và bảo : “Bình an cho anh em !” 37 Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma. 38 Nhưng Người nói : “Sao lại hoảng hốt ? Sao lòng anh em còn ngờ vực ? 39 Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà ! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây ?” 40 Nói xong, Người đưa tay chân ra cho các ông xem. 41 Các ông còn chưa tin vì mừng quá, và còn đang ngỡ ngàng, thì Người hỏi : “Ở đây anh em có gì ăn không ?” 42 Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng. 43 Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông.
44 Rồi Người bảo : “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Mô-sê, các sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm.” 45 Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh 46 và Người nói : “Có lời Kinh Thánh chép rằng : Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại ; 47 phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. 48 Chính anh em là chứng nhân về những điều này.”
BÌNH AN CỦA CHÚA – MÓN QUÀ ĐẦU TIÊN CỦA CHÚA PHỤC SINH
Sau khi hai môn đệ trở về từ làng Emmaus, lòng họ còn rạo rực vì kinh nghiệm gặp Chúa trên đường và trong lúc bẻ bánh. Họ vội vã trở lại Giêrusalem để chia sẻ niềm vui phục sinh với các Tông đồ. Trong lúc họ còn đang kể lại, thì Chúa Giêsu hiện ra giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!”
Không phải quyền năng, phép lạ hay sự trách cứ – mà bình an chính là điều đầu tiên Chúa Phục Sinh ban cho các môn đệ. Điều đó cho thấy: bình an không chỉ là cảm xúc dễ chịu hay tình trạng không có khó khăn, nhưng là một thực tại sâu xa, là một “món quà tuyệt vời” đến từ chính sự hiện diện sống động của Thiên Chúa. Vì vậy Bình An mà Chúa Phục Sinh ban tặng chính là:
Bình an của Chúa là sự hiện diện của Người. Ngài hiện diện giữa những người đang hoang mang, đóng kín cửa vì sợ hãi. Chính sự hiện diện ấy biến đổi nỗi lo thành niềm vui, sự nghi ngờ thành lòng tin.
Bình an của Chúa là Chúa Thánh Thần. Ngài thổi hơi ban Thánh Thần, ban sức mạnh để các môn đệ lên đường làm chứng cho Tin Mừng. Bình an không giữ họ lại trong phòng đóng kín, nhưng thúc đẩy họ bước ra với thế giới.
Bình an của Chúa là hoa trái của tha thứ và lòng thương xót. Dù các môn đệ đã từng bỏ chạy, từng chối Thầy, nhưng Chúa không trách móc. Ngài đến với tình yêu và thứ tha – và bình an được gieo nở từ đó.
Bình an của Chúa là sự sống đời đời, là niềm hy vọng phục sinh. Chúa sống lại để mở ra con đường sự sống cho nhân loại – và ai ở lại trong Ngài, sẽ được bình an vững bền không gì lay chuyển.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con bình an của Chúa: để chúng con luôn cảm nhận được sự hiện diện của Ngài trong đời sống, được sức mạnh của Chúa Thánh Thần nâng đỡ, được đón nhận hoa trái của tình yêu và lòng thương xót, và được chung hưởng niềm vui phục sinh với Ngài. Amen.
THỨ SÁU TRONG TUẦN BÁT NHẬT PHỤC SINH NĂM C
TIN MỪNG: Ga 21, 1 – 14
1 Khi ấy, Đức Giê-su lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở Biển Hồ Ti-bê-ri-a. Người tỏ mình ra như thế này. 2 Ông Si-môn Phê-rô, ông Tô-ma gọi là Đi-đy-mô, ông Na-tha-na-en người Ca-na miền Ga-li-lê, các người con ông Dê-bê-đê và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau. 3 Ông Si-môn Phê-rô nói với các ông : “Tôi đi đánh cá đây.” Các ông đáp : “Chúng tôi cùng đi với anh.” Rồi mọi người ra đi, lên thuyền, nhưng đêm ấy họ không bắt được gì cả.
4 Khi trời đã sáng, Đức Giê-su đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giê-su. 5 Người nói với các ông : “Này các chú, không có gì ăn ư ?” Các ông trả lời : “Thưa không.” 6 Người bảo các ông : “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá.” Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá. 7 Người môn đệ được Đức Giê-su thương mến nói với ông Phê-rô : “Chúa đó !” Vừa nghe nói “Chúa đó !”, ông Si-môn Phê-rô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. 8 Các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách vào khoảng gần một trăm thước.
9 Bước lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa. 10 Đức Giê-su bảo các ông : “Đem ít cá mới bắt được tới đây !” 11 Ông Si-môn Phê-rô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con. Cá nhiều như vậy mà lưới không bị rách. 12 Đức Giê-su nói : “Anh em đến mà ăn !” Không ai trong các môn đệ dám hỏi “Ông là ai ?”, vì các ông biết rằng đó là Chúa. 13 Đức Giê-su đến, cầm lấy bánh trao cho các ông ; rồi cá, Người cũng làm như vậy. 14 Đó là lần thứ ba Đức Giê-su tỏ mình ra cho các môn đệ, sau khi trỗi dậy từ cõi chết.
VÂNG THEO LỜI CHÚA
Lời Chúa hôm nay thuật lại cho chúng ta câu chuyện Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra lần thứ ba với các Tông đồ. Lần thứ nhất và thứ hai, Chúa hiện ra khi các ông đang sống trong tâm trạng sợ hãi, các cửa còn đóng kín vì sợ người Do Thái bách hại.
Còn lần này, Chúa hiện ra khi các ông đang buồn chán, thất vọng. Ngay cả Tông đồ trưởng Phêrô cũng rơi vào tâm trạng ấy. Các ông rủ nhau ra ngoài đánh cá, có lẽ vì nỗi thất vọng, buồn rầu đã khiến họ muốn trở lại với cuộc sống cũ trước khi gặp Thầy.
Bảy người cùng ra khơi, nhưng suốt đêm không bắt được con cá nào. Trời tờ mờ sáng, các ông vừa đói, vừa mệt mỏi, lại vừa thất vọng. Chính trong tình cảnh đó, Chúa Giêsu đã hiện ra và chỉ cho họ cách đánh cá mới. Ngài nói: “Hãy thả lưới bên phải mạn thuyền.” Dù mệt mỏi, các ông vẫn vâng lời Chúa.
Kết quả thật lạ lùng: dù là lúc trời sắp sáng, thời điểm cá thường không còn, các ông lại kéo được một mẻ cá đầy thuyền. Chính nhờ sự vâng lời đó mà các ông nhận ra Đấng đang nói chuyện và chỉ dẫn mình chính là Thầy Giêsu – Đấng đã phục sinh.
Trong cuộc sống, chúng ta cũng không ít lần rơi vào những thất bại: thất bại trong công việc, trong học tập, trong đời sống gia đình, trong tình yêu, hay cả trong việc giáo dục con cái. Những thất bại ấy khiến chúng ta rơi vào tâm trạng mệt mỏi, chán nản và tuyệt vọng – như các Tông đồ xưa.
Dù trong hoàn cảnh nào, chúng ta hãy noi gương các Tông đồ: vâng theo lời Chúa. Chính vì vâng lời, các ông đã tìm được niềm vui, niềm hy vọng, và nhất là nhận ra sự hiện diện của Đấng Phục Sinh trong cuộc sống mình.
Sau cùng, chúng ta cũng hãy ý thức rằng: không có Chúa, chúng ta không thể làm gì được. Không có Chúa, các Tông đồ đã không có mẻ lưới đầy cá. Chúng ta cũng vậy: nếu không có Chúa, đời sống chúng ta sẽ trống rỗng và không kết trái.
Lạy Chúa, Xin Ngài cho mỗi người chúng ta biết lắng nghe, vâng theo sự hướng dẫn của Chúa và luôn ý thức rằng: chỉ khi sống gắn bó, cậy dựa vào Chúa, cuộc đời ta mới có ý nghĩa và tràn đầy hoa trái. Amen.
THỨ BẢY TRONG TUẦN BÁT NHẬT PHỤC SINH NĂM C
TIN MỪNG: Mc 16, 9 – 15
9 Sau khi sống lại vào lúc tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần, Đức Giê-su hiện ra trước tiên với bà Ma-ri-a Mác-đa-la, là kẻ đã được Người trừ cho khỏi bảy quỷ. 10 Bà đi báo tin cho những kẻ đã từng sống với Người mà nay đang buồn bã khóc lóc. 11 Nghe bà nói Người đang sống và bà đã thấy Người, các ông vẫn không tin.
12 Sau đó, Người tỏ mình ra dưới một hình dạng khác cho hai người trong nhóm các ông, khi họ đang trên đường đi về quê. 13 Họ trở về báo tin cho các ông khác, nhưng các ông ấy cũng không tin hai người này.
14 Sau cùng, Người tỏ mình ra cho chính Nhóm Mười Một đang khi các ông dùng bữa. Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người trỗi dậy. 15 Người nói với các ông : “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo.”
ĐƯỢC BIẾN ĐỔI
Tin Mừng Mác cô hôm nay tóm kết lại những lần Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ sau khi sống lại. Điều đáng ngạc nhiên là: những Tông đồ – người từng sống gần gũi, đã từng đồng hành với Chúa – lại không tin vào lời chứng của những người đã thấy Chúa phục sinh. Bà Ma-ri-a Mác-đa-la thuật lại, rồi đến hai môn đệ từ Emmaus kể lại kinh nghiệm gặp Chúa trên đường, nhưng các ông vẫn nghi ngờ, hoang mang và cứng lòng tin.
Thế nhưng, Chúa Giêsu không bỏ rơi họ. Chính Người lại hiện ra với họ, khiển trách sự cứng lòng, rồi lại trao cho họ sứ mạng cao cả: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.” Từ cuộc gặp gỡ với Đấng Phục Sinh, cuộc đời các Tông đồ được biến đổi hoàn toàn:
Từ nghi ngờ đến sứ mạng: từ những con người hoài nghi, cứng lòng, họ đã trở nên những nhà truyền giáo, những chứng nhân không biết mỏi mệt để loan truyền Tin Mừng Phục sinh của Chúa đến toàn thế giới.
Từ thất bại đến phục hồi: sau cú sốc thập giá, các ông tưởng chừng tan rã, nhưng nhờ gặp Chúa, họ được tái sinh.
Từ kẻ chạy chốn đến chứng nhân: dù từng từ chối tin vào người khác, từ chạy chốn vì sợ hãi, nhưng sau khi được Chúa gặp Đấng Phục Sinh, chính những người yếu đuối đó lại trở thành những chứng nhân can đảm.
Từ khép kín đến mở ra: nỗi sợ khiến họ đóng kín cửa lòng, nhưng ánh sáng phục sinh đã mở toang cánh cửa sứ mạng.
Từ xấu hổ đến lòng thương xót: họ đã là những người bỏ rơi Chúa, chối Thầy, nhưng Chúa không trách mắng, mà nhẹ nhàng sửa dạy họ bằng lòng nhân hậu xót thương, giúp họ cũng biết cảm thông với người yếu đức tin và xa ngã.
Chúa Giê-su Phục Sinh đã đến và biết đổi cuộc đời của các Tông đồ, đã mở ra cho họ một cánh của mới bằng tình yêu, lòng nhân từ xót thương. Vì vậy chúng ta cũng hãy can đảm để Đấng Phục Sinh biến đổi cuộc đời chúng ta. Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin chữa lành những nghi ngờ và sợ hãi trong tâm hồn chúng con. Xin ban cho chúng con lòng tin vững mạnh, để sẵn sàng lên đường thi hành sứ mạng loan báo Tin Mừng bằng chính đời sống của mình. Amen.
LM. PHAOLO